TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CỦ CHI, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 18/2023/HS-ST NGÀY 14/02/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Trong ngày 14 tháng 02 năm 2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 04/2023/TLST-HS ngày 10 tháng 01 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 18/2023/QĐXXST-HS ngày 31 tháng 01năm 2023, đối với các bị cáo:
1/ Họ và tên: Lê Thanh P, sinh năm: 1987 tại: Tỉnh Bình Thuận; Nơi cư trú: Thôn T, xã P, huyện B, tỉnh Bình Thuận; Nơi ở hiện tại: ấp 5, xã B, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ văn hóa (học vấn):
09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lê Thanh T và bà: Lê Thị C; bị cáo có vợ và có 03 người con (Lớn nhất sinh năm 2013, nhỏ nhất sinh năm 2017); tiền án: không; tiền sự: Bị đưa đi cai nghiện bắt buộc tại Cơ sở cai nghiện ma túy Phước Bình theo Quyết định số:
130/QĐ-TA ngày 04/5/2021 của Tòa án nhân dân huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh; bị bắt, tạm giam từ ngày 30/7/2022 cho đến nay. (có mặt) 2/ Họ và tên: Nguyễn Văn T, sinh năm: 1991 tại: Thành phố Hồ Chí Minh; Nơi cư trú: 434/1C Phan Xích L, khu phố 3, Phường 2, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh; Nơi ở hiện tại: ấp 5, xã B, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ văn hóa (học vấn): 00/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn T và bà: Nguyễn Thị H; bị cáo chưa có vợ; tiền án: Bị Tòa án nhân dân huyện Củ Chi xử phạt 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án sơ thẩm số 158/2020/HS-ST ngày 26/08/2020; tiền sự: Không; bị bắt, tạm giam từ ngày 30/7/2022 cho đến nay. (có mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Nguyễn Văn T không có việc làm ổn định, để có tiền tiêu xài, T đã nảy sinh ý định mua bán trái phép chất ma túy nhằm kiếm lời. Ngày 22/07/2022, T gặp 01 người bạn xã hội (Chưa rõ lai lịch) và được người này hướng dẫn cách mua bán trái phép chất ma túy, T đồng ý và đã hỏi mua 900.000 đồng tiền ma túy. Người thanh niên này đồng ý bán và hẹn đến ngày 24/07/2022 sẽ mang chất ma túy đến treo ở cành cây gần Trạm xăng dầu Phương Thủy thuộc Ấp 5, xã B, huyện C. Đến khoảng 19 giờ ngày 24/07/2022, T đến điểm hẹn thấy có 01 bịch nylon màu đen, bên trong có gói nylon chứa ma túy loại Heroine, T lấy toàn bộ số ma túy này về nhà và để lại số tiền 900.000 đồng trong bịch nylon. Khi ai có nhu cầu mua chất ma túy thì liên lạc qua số điện thoại 0977174033 của T hoặc đến nhà gặp trực tiếp để thỏa thuận giao dịch mua bán.
Nguyễn Văn T đã thực hiện bán chất ma túy cho Lê Thanh P được 05 lần (03 lần không nhớ rõ ngày cụ thể; 02 lần gần nhất là ngày 29/07/2022 và 30/07/2022), mỗi lần đều bán với giá 100.000 đồng chất ma túy, T đã thu được số tiền 300.000 đồng, P còn nợ 200.000 đồng. Cụ thể:
Vào khoảng 05 giờ 30 phút ngày 30/7/2022, P điều khiển xe gắn máy biển số 93E1-132.xx đi đến nhà của Nguyễn Văn T ngụ tại Ấp 5, xã B, huyện C để hỏi mua 100.000 đồng tiền ma túy và hẹn trả tiền sau. T đồng ý và giao cho P một tờ vé số được gấp lại bên trong có chứa Heroine. P cầm gói ma túy trong tay trái rồi điều khiển xe gắn máy đi về. Đến khoảng 06 giờ 00 phút, khi đi qua khu đường Hà Duy Phiên thuộc Ấp 5, xã B, huyện C thì bị lực lượng Công an kiểm tra phát hiện bắt quả tang.
Đến khoảng 6 giờ 15 phút cùng ngày, có 01 một thanh niên (Chưa rõ lai lịch) gọi điện vào số máy 0977174033 của T để hỏi mua 200.000 đồng tiền ma túy, T đồng ý và hẹn gặp tại khu vực gần Trạm xăng dầu Phương Thủy thuộc Ấp 5, xã B, huyện C để giao nhận tiền và ma túy. Sau đó, T cầm gói ma túy trên tay phải rồi điều khiển xe gắn máy biển số 59G1-020.xx đến chỗ hẹn. Khi đến đoạn kênh thuộc Ấp 5, xã B, huyện C thì bị lực lượng Công an xã Bình Mỹ tiến hành kiểm tra, do hoảng sợ T liền ném 01 gói nylon chứa ma túy loại Heroine từ trên tay phải xuống mương nước ngay vị trí T đang đứng để phi tang nhưng bị Công an phát hiện thu giữ lập biên bản bắt quả tang.
Tại Bản cáo trạng số: 12/CT-VKS.CC ngày 06/01/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Củ Chi đã truy tố bị cáo Lê Thanh P về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự và truy tố bị cáo Nguyễn Văn T về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên Toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Củ Chi giữ quyền công tố và đề nghị Hội đồng xét xử:
Áp dụng tại điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s, t khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Lê Thanh P mức án từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù.
Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51 và điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T mức án từ 07 năm 06 tháng đến 08 năm tù.
Về vật chứng vụ án:
Đề nghị tịch thu tiêu hủy 01(một) gói niêm P mang số vụ 917/22 (4408) có chữ ký niêm P của Cán bộ điều tra và giám định viên và 01(một) gói niêm P mang số vụ 916/22 (4407) có chữ ký niêm P của Cán bộ điều tra và giám định viên;
Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước 01 (một) điện thoại di động Iphone đã qua sử dụng, 01 (một) xe gắn máy hiệu Honda, loại Wave S biển số 59G1- 020.xx và 01 (một) xe gắn máy hiệu Honda Blade biển số 93E1-132.xx;
Đề nghị truy thu của bị cáo T số tiền 600.000đồng và của bị cáo P số tiền 200.000đồng là tiền thu lợi bất chính của các bị cáo.
Tại phiên tòa, bị cáo Lê Thanh P và Nguyễn Văn T thừa nhận Viện kiểm sát nhân dân huyện Củ Chi truy tố các bị cáo theo cáo trạng nêu trên là đúng với hành vi các bị cáo gây ra, không oan sai gì cho các bị cáo.
Lời nói sau cùng của các bị cáo: Bị cáo đã ăn năn, hối cải về lỗi lầm của mình, mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
Về tố tụng: Về hành vi, các quyết định Tố tụng của Cơ quan điều tra, điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được thực hiện đều hợp pháp.
[1] Tại phiên tòa, các bị cáo Lê Thanh P và Nguyễn Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội:
Vào lúc 06 giờ 00 phút ngày 30/7/2022 trên tuyến đường Hà Duy Phiên thuộc ấp 5, xã B, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh, Lê Thanh P tàng trữ 01 tờ vé số chứa chất ma túy có khối lượng 0,2225 gam do Nguyễn Văn T bán, loại heroine để sử dụng thì bị bắt quả tang.
Đến khoảng 07 giờ 00 phút cùng ngày, trên tuyến đường kênh thuộc ấp 5, xã B, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh, Nguyễn Văn T tàng trữ 01 gói nylon chứa chất ma túy có khối lượng 0,0561 gam, loại heroine nhằm mục đích đem đi bán để kiếm lời thì bị bắt quả tang. Ngoài ra, trước đó Nguyễn Văn T khai đã thực hiện hiện bán chất ma túy cho Lê Thanh P được 05 lần, mỗi lần đều bán với giá 100.000 đồng.
Căn cứ vào Kết luận giám định số 4407/KL-KTHS ngày 03/8/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hồ Chí Minh, kết luận bột màu trắng trong 01 tờ vé số được niêm P bên ngoài có dấu vân tay, chữ ký ghi tên Lê Thanh P: Bột màu trắng được ký hiệu mẫu m cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,2225g (không phẩy hai hai hai năm gam) loại Heroine. Và căn cứ vào kết luận giám định số 4408/KL-KTHS ngày 03/8/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hồ Chí Minh, kết luận bột màu trắng trong 01 gói nylon số được niêm P bên ngoài có dấu vân tay, thu giữ của Nguyễn Văn T: Bột màu trắng được ký hiệu mẫu m cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,0561g (không phẩy không năm sáu một gam) loại Heroine.
Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa là khách quan, phù hợp với biên bản bắt quả tang, phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác thu thập được có trong hồ sơ vụ án.
Như vậy, có đủ cơ sở để xác định hành vi nêu trên của bị cáo Lê Thanh P đã phạm vào tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự và hành vi nêu trên của bị cáo Nguyễn Văn T đã phạm vào tội: Mua bán trái phép chất ma túy, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự Cáo trạng số: 12/CT-VKS.CC ngày 06/01/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Củ Chi đã truy tố đối với các bị cáo Lê Thanh P và Nguyễn Văn T là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, các bị cáo phạm tội do cố ý, các bị cáo đã có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến sự quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma túy, xâm phạm đến trật tự công cộng, an toàn xã hội, là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm khác. Xét tính chất mức độ nguy hiểm hành vi phạm tội của các bị cáo gây ra, cần có mức hình phạt tương đối nghiêm khắc, tiếp tục cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian, để răn đe, giáo dục các bị cáo và đấu tranh, phòng ngừa chung cho toàn xã hội.
Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử cũng cần xem xét các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự cũng như nhân thân của các bị cáo để có mức hình phạt tương xứng.
Về tình tiết giảm nhẹ: Hội đồng xét xử xét thấy tại cơ quan điều tra và tại phiên toà các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo theo điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Bị cáo P tích cực hợp tác với cơ quan điều tra trong việc phát hiện tội phạm nên được áp dụng điểm t khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.
Về tình tiết tăng nặng:
Bị cáo Lê Thanh P có nhân thân xấu, bị đưa đi cai nghiện bắt buộc tại Cơ sở cai nghiện ma túy Phước Bình theo Quyết định số: 130/QĐ-TA ngày 04/5/2021 của Tòa án nhân dân huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh.
Đối với bị cáo Nguyễn Văn T: Ngày 26/8/2020 bị Tòa án nhân dân huyện Củ Chi , Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội : Trộm cắp tài sản, theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự, và căn cứ vào Công văn số : 2457/CCTHADS ngày 26/10/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Củ Chi xác định bị cáo vẫn chưa chấp hành xong. Do vậy áp dụng điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự để xem xét hình phạt cho bị cáo.
Về hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự, xét thấy bị cáo P không có việc làm ổn định, do vậy không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo là phù hợp.
Về hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 251 của Bộ luật hình sự, xét thấy bị cáo T không có việc làm ổn định, do vậy không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo là phù hợp.
Tại phiên tòa, bị cáo T khai nhận số tiền thu lợi bất chính từ hành vi mua bán trái phép chất ma túy là 600.000đồng và đồng ý nộp lại vào ngân sách nhà nước, nên ghi nhận. Bị cáo P thừa nhận còn nợ bị cáo T tiền mua ma túy là 200.000đồng và đồng nộp lại vào ngân sách nhà nước nên ghi nhận.
[2] Về xử lý vật chứng:
Đối với 01(một) gói niêm P mang số vụ 917/22 (4408) có chữ ký niêm P của Cán bộ điều tra và giám định viên và 01(một) gói niêm P mang số vụ 916/22 (4407) có chữ ký niêm P của Cán bộ điều tra và giám định viên là vật chứng, cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy.
Đối với 01 (một) điện thoại di động Iphone đã qua sử dụng thu của bị cáo T, tại phiên tòa bị cáo khai là tài sản của bị cáo và sử dụng để liên lạc mua bán ma túy nên cần tịch thu, nộp ngân sách nhà nước.
Đối với 01 (một) xe gắn máy hiệu Honda, loại Wave S biển số 59G1- 020.xx thu của bị cáo T có số khung: RLHJC431XBY612802, số máy:
JC43E606780. Quá trình điều tra truy tố xác định xe máy có biển kiểm soát:
59G1-020.xx thuộc quyền sở hữu của chị Phạm Thị T và đã bán lại cho cửa hàng xe gắn máy Ngọc Hà. Bị cáo mua lại sử dụng, do tại phiên tòa bị cáo khai là tài sản của bị cáo và sử dụng để mua bán ma túy nên cần tịch thu, nộp ngân sách nhà nước;
Đối với 01 (một) xe gắn máy hiệu Honda Blade biển số 93E1-132.xx thu của bị cáo P có số máy: JA36E0153578, số khung: RLHJA3616EY100213, tại phiên tòa bị cáo khai là tài sản của ba bị cáo, và không biết bị cáo sử dụng làm phương tiện mua ma túy. Tuy nhiên, quá trình điều tra truy tố, bị cáo không cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng minh tài sản thuộc quyền sở hữu và đã quá thời hạn theo thông báo số: 31/TB-CSĐT-MT ngày 15/12/2022 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Củ Chi về việc tìm chủ sở hữu mà vẫn không có ai đến nhận tài sản theo quy định, do vậy cần tịch thu, nộp ngân sách nhà nước là phù hợp;
Tại phiên tòa, bị cáo T đồng ý nộp lại số tiền thu lợi bất chính là 600.000đồng và bị cáo P đồng ý nộp lại số tiền 200.000đồng là tiền bị cáo còn nợ mua ma túy để sử dụng mà chưa trả lại cho bị cáo T, nên ghi nhận là phù hợp.
[3] Về trách nhiệm dân sự: Không có.
[4] Về các vấn đề khác: Đối với đối tượng bán ma túy và đối tượng mua ma túy của T (Chưa rõ lai lịch) Cơ quan Cảnh sát điều tra tiếp tục xác minh, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.
[5] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
[1] Tuyên bố bị cáo Lê Thanh P phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”.
[1.1] Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s, t khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Lê Thanh P 02 (hai) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 30/7/2022.
[1.2] Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 08 (tám) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 30/7/2022.
[2] Căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:
Tịch thu tiêu hủy 01(một) gói niêm P mang số vụ 917/22 (4408) có chữ ký niêm P của Cán bộ điều tra và giám định viên và 01(một) gói niêm P mang số vụ 916/22 (4407) có chữ ký niêm P của Cán bộ điều tra và giám định viên.
Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone đã qua sử dụng; 01 (một) xe gắn máy hiệu Honda, loại Wave S biển số 59G1- 020.xx đã qua sử dụng và 01 (một) xe gắn máy hiệu Honda, loại Blade biển số 93E1-132.xx. (Theo Lệnh nhập kho vật chứng số: 05/LNK-CSĐT (MT) ngày 22/12/20222) Buộc bị cáo Nguyễn Văn T phải nộp số tiền 600.000 (sáu trăm ngàn) đồng và bị cáo Lê Thanh P phải nộp số tiền 200.000 (hai trăm ngàn) đồng vào ngân sách nhà nước .
[3] Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc các bị cáo Lê Thanh P và Nguyễn Văn T mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
[4] Căn cứ vào Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự, thời hạn kháng cáo là mười lăm ngày, kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 18/2023/HS-ST
Số hiệu: | 18/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Củ Chi - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 14/02/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về