TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HÀ NAM
BẢN ÁN 18/2023/HS-PT NGÀY 19/05/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 19 tháng 5 năm 2023, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Hà Nam xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 31/2023/HS-PT ngày 25 tháng 4 năm 2023 đối với bị cáo Đào Thái S; do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 16/2023/HS-ST ngày 22 tháng 3 năm 2023 của Toà án nhân dân huyện B, tỉnh Hà Nam.
- Bị cáo có kháng cáo: Đào Thái S, sinh năm 1980; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: số 88A, ngõ 24 N, phường N, quận L, thành phố Hà Nội; chỗ ở: số 1704 Tòa A, chung cư Berriver, 390 Nguyễn Văn C, phường B, quận L, thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; đảng, đoàn: không; con ông Đào Kháng C và bà Lê Quỳnh L; vợ: không; bị cáo chung sống như vợ chồng với chị Bùi Mai A, sinh năm 1983, hộ khẩu thường trú: số 11A CC, phường H, quận H, thành phố Hà Nội; chỗ ở: số 1604 Tòa A, chung cư Berriver, 390 Nguyễn Văn C, phường B, quận L, thành phố Hà Nội và có 03 con chung với chị Bùi Mai A; tiền án, tiền sự: không; bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 22/9/2022, chuyển tạm giam từ ngày 01/10/2022 đến ngày 18/01/2023 được tại ngoại; hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Trước ngày 22/9/2022 khoảng một tuần, thông qua mạng xã hội Facebook, Đào Thái S biết một nam thanh niên tên là C sử dụng tài khoản Facebook “Trần Văn C” có bán ma túy. Ngày 21/9/2022, sau khi nói chuyện, C cho S số điện thoại 0961053800 của C để liên hệ, S lưu số điện thoại này trong máy điện thoại của mình là “C HN”; C hẹn S sáng hôm sau đi đến tỉnh Hà Nam để mua bán ma túy. Sáng ngày 22/9/2022 S gọi điện thoại thì C bảo S đi đến Quốc lộ 21B thuộc địa bàn huyện B, tỉnh Hà Nam; S điều khiển xe ôtô BKS 30A - 893.26 đi từ phường N, quận L, thành phố Hà Nội theo hướng dẫn chỉ đường của ứng dụng Google; trên đường đi S tiếp tục gọi điện thoại thì C bảo S cứ đi đến đoạn đường Quốc lộ 21B và chờ ở ven đường; khi nhìn thấy một người nam thanh niên đứng ở lề đường vẫy lại, S dừng xe thì người thanh niên ngồi vào xe ô tô, S biết người này là C nên điều khiển xe đi tiếp một đoạn hướng về thành phố Hà Nội thì dừng xe lại ở lề đường; C lấy ra một gói ma túy đá và nói với S “Có thử không” thì S nói “Ừ”; C lấy bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá và cho một ít ma túy đá vào đó để C và S cùng sử dụng bằng hình thức hút. Sau đó, S điều khiển xe hướng về thành phố Hà Nội, C “Có lấy không” thì S nói “Ok” và lấy trong túi quần phía trước bên phải ra 1.000.000 đồng gồm 02 tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng đưa cho C. Sau khi nhận tiền, C đưa cho S 01 túi nilon màu trắng miệng túi có kẹp nhựa, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng; S cầm lấy bỏ vào trong túi quần phía trước bên phải đang mặc, C nói với S cho đi nhờ thêm một đoạn đường để về nhà. Đến khoảng 12 giờ cùng ngày, khi S điều khiển xe đi đến đoạn đường ĐT 496B thuộc thôn 2, xã A, huyện B thì C bảo S dừng xe để C xuống xe; cùng lúc này lực lượng Công an đi đến yêu cầu kiểm tra, S đã tự giác lấy trong túi quần phía trước bên phải đang mặc ra 01 túi nilon màu trắng miệng túi có kẹp nhựa, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng và khai nhận đó là ma túy đá vừa mua để sử dụng. Trên cơ sở lời khai của S, lực lượng Công an đã đưa S cùng phương tiện liên quan đến trụ sở UBND xã A để lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng là 01 túi nillon màu trắng, bên trong chứa tinh thể màu trắng được niêm phong trong phong bì ký hiệu QT01 và tạm giữ 01 điện thoại OPPO được niêm phong trong phong bì ký hiệu QT02, 01 xe ôtô BKS 30A - 893.26.
Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện B đã tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Đào Thái S tại số nhà 1704 Tòa A, chung cư Berriver, 390 Nguyễn Văn C, phường B, quận L, thành phố Hà Nội nhưng không thu giữ được đồ vật, tài liệu gì liên quan đến vụ án.
Ngày 22/9/2022 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện B đã ra quyết định trưng cầu giám định đối với chất tinh thể màu trắng được niêm phong trong phong bì ký hiệu QT01 để xác định loại, khối lượng chất ma túy.
Tại bản Kết luận giám định số 518/KL-KTHS ngày 26/9/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam kết luận: “Mẫu tinh thể trong phong bì ký hiệu QT01 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,915g (không phẩy chín trăm mười lăm gam) loại Methamphetamine”.
Quá trình điều tra vụ án, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện B đã tiến hành kiểm tra, khai thác dữ liệu trong điện thoại OPPO thu giữ của Đào Thái S, kết quả xác định: Trong điện thoại có 02 sim điện thoại Vinaphone, trong đó 01 sim điện thoại có số thuê bao 0812362425 Đào Thái S khai nhận sử dụng để liên lạc hỏi mua ma túy ngày 22/9/2022. Kiểm tra ứng dụng Messenger và Facebook, Đào Thái S khai nhận ngày 21/9/2022 có nhắn tin với tài khoản Facebook là “CTV” và C đã cho S số thuê bao điện thoại 0961053800 để liên lạc, trao đổi mua bán ma túy. Kiểm tra trong máy điện thoại số thuê bao 0961053800 được lưu tên là “C HN”; có cuộc gọi đi lúc 9 giờ 23 phút ngày 22/9/2022 hiển thị 47 giây; lúc 10 giờ 29 phút ngày 22/9/2022 hiển thị 56 giây; lúc 10 giờ 42 phút hiển thị 40 giây. S khai nhận sau khi S gọi điện thoại, C còn sử dụng số thuê bao điện thoại 0925366412 gọi đến cho S lúc 11 giờ 15 phút ngày 22/9/2022 hiển thị 15 giây, lúc 11 giờ 26 phút ngày 22/9/2022 hiển thị 35 giây; cuộc gọi đến lúc 11 giờ 36 phút ngày 22/9/2022 hiển thị 20 giây. Kiểm tra cuộc gọi nhỡ, tin nhắn đến, tin nhắn đi không có dữ liệu.
Cơ quan Cơ quan cảnh sát điều huyện B đã áp dụng các biện pháp nghiệp vụ, tiến hành thu giữ thư tín, điện tín đối với các số thuê bao 0812362425, 0961053800, 0925366412 nhưng không đủ căn cứ để xác định được lai lịch của đối tượng tên là C theo lời khai của Đào Thái S.
Đối với chiếc xe ô tô BKS 30A - 893.26 xác định là tài sản hợp pháp của chị Bùi Mai A, không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên Cơ quan cảnh sát điều tra huyện B đã xử lý đã lại cho chị Bùi Mai A là phù hợp quy định pháp luật.
Với hành vi trên, tại Bản án hình sự sơ thẩm số 16/2023/HS-ST ngày 22/3/2023 của Toà án nhân dân huyện B, tỉnh Hà Nam tuyên bố bị cáo Đào Thái S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoan 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự; xử phạt Đào Thái S 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về vật chứng, án phí và tuyên quyền kháng cáo.
Ngày 28/3/2023, bị cáo Đào Thái S kháng cáo xin giảm hình phạt; tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Nam tham gia phiên toà đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự; chấp nhận kháng cáo của bị cáo Đào Thái S; sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 16/2023/HS-ST ngày 22/3/2023 của Toà án nhân dân huyện B, tỉnh Hà Nam; đề nghị xử phạt bị cáo Đào Thái S từ 15 đến 18 tháng tù, về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Tại phiên tòa, bị cáo Đào Thái S nhất trí quan điểm giải quyết vụ án của đại diện Viện kiểm sát và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Đơn kháng cáo của bị cáo Đào Thái S trong thời hạn luận định, nội dung bảo đảm theo quy định tại Điều 332 Bộ luật Tố tụng hình sự nên được Hội đồng xét xử xem xét, giải quyết theo quy định của pháp luật.
[2] Về tội danh: Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Đào Thái S khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, vật chứng thu giữ, kết luận giám định cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án nên có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 12 giờ, ngay 22/9/2022 tại đoạn đường ĐT 496B thuộc địa phận thôn 2, xã A, huyện B, tỉnh Hà Nam, Đào Thái S có hành vi tàng trữ trái phép 0,915 gam Methamphetamine nhằm mục đích để sử dụng thì bị lực lượng Công an phát hiện, bắt quả tang. Với hành vi trên, bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Hà Nam xét xử về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.
[3] Xét kháng cáo xin giảm hình phạt của bị cáo Đào Thái S, cấp phúc thẩm thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma túy, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương nên cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm răn đe và phòng ngừa chung. Quá trình điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải; bố đẻ Đào Kháng C có công với cách mạng được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng ba, Huân chương chiến sĩ giải phóng hạng ba; ông ngoại Lê Phái V là Liệt sỹ nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo tỏ rõ thái độ ăn năn hối cải, khai báo thành khẩn; xuất trình đơn xác nhận hoàn cảnh gia đình khó khăn, ba con còn nhỏ đang độ tuổi ăn học, là lao động chính; bị cáo có bà nội Lưu Thị T có công với cách mạng được tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng; bản thân bị cáo sức khỏe yếu, sau khi xét xử sơ thẩm nhận thức rõ hành vi phạm tội nên đã tự nguyện nộp khoản tiền án phí hình sự sơ thẩm, đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới nên xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Xét thấy, bị cáo nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự; được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 51 Bộ luật Hình sự, trong đó có những tình tiết giảm nhẹ mới, không có tình tiết tăng nặng nên Hội đồng xét xử thấy có căn cứ giảm một phần hình phạt để bị cáo yên tâm cải tạo, đó cũng là thể hiện chính sách khoan hồng của Nhà nước đối với người phạm tội lần đầu, biết ăn năn hối cải. Vì vậy, kháng cáo xin giảm hình phạt của bị cáo có căn cứ, được cấp phúc thẩm chấp nhận.
[4] Án phí: Do yêu cầu kháng cáo được cấp phúc thẩm chấp nhận nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Ghi nhận bị cáo đã nộp 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.
[5] Các quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự; chấp nhận kháng cáo xin giảm hình phạt của bị cáo Đào Thái S; sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 16/2023/HS-ST ngày 22 tháng 3 năm 2023 của Toà án nhân dân huyện B, tỉnh Hà Nam.
1. Áp dụng điểm c khoan 1 Điều 249; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên bố bị cáo Đào Thái S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Xử phạt bị cáo Đào Thái S 15 (mười lăm) tháng tù (được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 22/9/2022 đến ngày 18/01/2023); thời hạn tù tính từ ngày bắt đi thi hành án.
2. Án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Đào Thái S không phải nộp.
Ghi nhận bị cáo nộp khoản tiền án phí hình sự sơ thẩm 200.000đ (hai trăm nghìn) đồng theo biên lai thu tiền số 0002364 ngày 22/3/2023 tại Chi cục thi hành dân sự huyện B, tỉnh Hà Nam; số tiền đã nộp được đối trừ khi thi hành án.
3. Các quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 18/2023/HS-PT
Số hiệu: | 18/2023/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hà Nam |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 19/05/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về