Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 18/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HỒNG BÀNG, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 18/2021/HS-ST NGÀY 23/03/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 06/2021/TLST-HS ngày 15 tháng 01 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 16/2021/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 3 năm 2021, đối với các bị cáo:

1. PVC, sinh ngày 16 tháng 8 năm 1958 tại Hải Dương; ĐKNKTT: Khu 5, thị trấn A, huyện A, tỉnh Hải Dương; trú tại: Số nhà 13/336, đường B, phường C, thành phố D, tỉnh Hải Dương; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: Lớp 4/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông E và bà F (đều đã chết); có ba vợ: Vợ thứ nhất là G (đã chết), vợ thứ hai là H (đã ly hôn), vợ thứ ba là I (đã ly hôn), có ba con: Con lớn sinh năm 1982, con nhỏ sinh năm 1995; tiền án: Bản án số 976/PTHS ngày 30-6-2004 Tòa án nhân dân Tối cao xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy, 07 năm 06 tháng tù về tội Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy. Buộc PVC phải chấp hành 09 tháng tù của bản án số 16/HSST ngày 18-7-2002 của Tòa án nhân dân huyện Tứ Kỳ về tội Trộm cắp tài sản. Tổng hợp hình phạt chung là 10 năm 09 tháng tù; Bản án số 53/2017/HSST ngày 19-7-2017 Tòa án nhân dân huyện A, tỉnh Hải Dương xử phạt 48 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy; tiền sự: Không; nhân thân: Bản án số 155/2012/HSST ngày 11-9-2012 Tòa án nhân dân thành phố Hải Dương xử phạt 27 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy; bị tạm giữ ngày 30-5-2020, tạm giam từ ngày 03-6-2020; có mặt.

2. MVC, sinh ngày 29 tháng 10 năm 1994 tại Hải Dương; ĐKNKTT: Khu 5, thị trấn A, huyện A, tỉnh Hải Dương; trú tại: Khu 1, phường J, thành phố D, tỉnh Hải Dương; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: Lớp 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông K và bà L; chưa có vợ con; tiền án: Bản án số 28/2019/HS-ST ngày 26-4-2019 Tòa án nhân dân huyện A, tỉnh Hải Dương xử phạt 12 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, tiền sự: Không; nhân thân: Bản án số 77/2012/HSST ngày 25-12-2012 Tòa án nhân dân huyện Hải Dương, tỉnh Hải Dương xử phạt 04 tháng tù về tội Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có; bị tạm giữ ngày 30-5-2020, tạm giam từ ngày 03-6-2020; có mặt.

- Người làm chứng: Anh NLC; vắng mặt.

- Người chứng kiến: Ông NCK; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do nghiện ma túy nên khoảng 12 giờ ngày 29-5-2020 PVC đã mua ma túy đá của một người không quen biết tại Hải Dương mang đến nhà bạn là M ở địa chỉ: N, thành phố , tỉnh Hải Dương để sử dụng. Trong lúc PVC và M đang sử dụng thì MVC đến rồi tự lấy ma túy cùng sử dụng. Sau khi sử dụng xong PVC bảo MVC chở xuống Hải Phòng để mua ma túy. MVC biết PVC mua ma túy về sử dụng và đi cùng PVC thì khi mua được PVC s cho MVC một ít ma túy để sử dụng nên đồng ý. Sau đó cả hai về nhà PVC tại số 13/336 B, phường C, thành phố A để nghỉ. Tại đây PVC gọi vào số điện thoại 0936313468 cho một người tên O ở Hải Phòng để báo hôm nay s mua ma túy, O bảo PVC cứ xuống đến khu vực P, Hải Phòng thì gọi lại. Đến 00 giờ ngày 30-5-2020 MVC điều khiển xe môtô biển kiểm soát 16M3 - 7679 chở PVC xuống Hải Phòng. Trên đường đi PVC bảo MVC đi đến khu vực P. Khi đang đi thì trời mưa nên MVC và PVC thuê phòng tại nhà nghỉ Q ở đường R, Hải Phòng để nghỉ. Tại đây PVC đưa điện thoại di động cho MVC và bảo MVC soạn tin nhắn với nội dung: Tôi đang ở nhà nghỉ Q. 5 gạo 1 lít nước , tức là hỏi mua 5 chỉ ma túy Heroin và 10 gam ma túy đá . MVC hiểu đây là nội dung tin nhắn mua ma túy nên soạn tin nhắn rồi đưa lại điện thoại cho PVC để PVC gửi tới số O . Khoảng 02 giờ 30 phút cùng ngày, PVC gọi vào số điện thoại 0867857129 lưu trong danh bạ là O 2 thì được O báo giá tổng tiền số ma túy PVC hỏi mua là 19.000.000 (mười chín triệu) đồng và h n đến sáng gặp nhau để giao dịch ma túy. Khoảng 07 giờ 30 phút cùng ngày, O gọi điện cho PVC và h n PVC đến khu vực đường S, quận T, Hải Phòng để giao dịch. MVC chở PVC tới khu vực ng 37 S, T, đến nơi MVC cầm điện thoại của PVC và ngồi ở quán nước còn PVC đi sang quán tóc phía đối diện. Trong lúc PVC đang cắt tóc thì O gọi tới. MVC cầm điện thoại sang đưa cho PVC nghe và nói với O đang đợi ở quán cắt tóc đầu ng 37 S. Khoảng vài phút sau, O được một người nam giới điều khiển xe máy nhãn hiệu H ND SH (chưa r biển kiểm soát) chở đến và ngồi ở quán ăn sáng phía bên cạnh. PVC nhìn thấy, biết đó là O nên đã đi sang ngồi cạnh và đưa cho O 19.000.000 (mười chín triệu) đồng. O nhận tiền xong thì ném ra 01 (một) túi nilon màu xanh trên bề mặt có chữ ch nhân trần rồi cùng người nam giới bỏ đi. PVC biết đó là ma túy nên đã dùng tay trái nhặt lên cất vào túi quần phía trước bên trái đang mặc rồi cùng MVC đi ra lấy xe để về Hải Dương. Khi đi đến khu vực phía chân cầu U, thuộc đường V, phường W, quận X thì bị lực lượng Công an dừng xe yêu cầu MVC dắt xe lên vỉa h để kiểm tra. PVC đã dùng tay trái móc túi nilon chứa ma túy trong túi quần ra và thả xuống mặt đất nhưng bị lực lượng Công an phát hiện nên PVC bỏ chạy về phía cầu U, MVC lao tới định lấy túi nilon chứa ma túy nhưng bị lực lượng Công an khống chế. Tiến hành kiểm tra, phát hiện trong túi nilon màu xanh có chữ ch nhân trần kích thước 11 cm x 9,7 cm PVC thả xuống ven đường bên trong có chứa 01 (một) túi nilon có mép dán màu đỏ kích thước 13,5 cm x 8,5 cm chứa chất ma túy Methaphetamine (m u 01) và 01 (một) túi ni lon kích thước 11 cm x 6 cm chứa ma túy Heroine (m u 02) nên đã đưa PVC và MVC cùng toàn bộ tang vật về trụ sở ở Công an phường W lập biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang.

Tại bản Kết luận giám định số 304/KLGĐ-MT ngày 01-6-2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hải Phòng, kết luận: Chất tinh thể mầu trắng của mẫu 01 gửi giám định là ma túy, loại: Methamphetamine, có khối lượng: 12,30 gam. Chất bột mầu trắng của mẫu 02 gửi giám định là ma túy, loại Heroin, có khối lượng 18,74 gam”.

Về vật chứng: Lượng ma túy còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì thư có dấu niêm phong số 304/2020/PC09 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hải Phòng; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Vsmat mầu đen có gắn hai sim số ICCID là: 8401190333259937WD và 898402000010998228530; 01 (một) ví giả da mầu đen và số tiền 297.000 đồng.

Tại phiên tòa, các bị cáo PVC và MVC đã khai nhận toàn bộ nội dung sự việc phạm tội vào thời gian và địa điểm như nội dung Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân quận Hồng Bàng đã truy tố.

Cáo trạng số: 12/CT-VKSHB, ngày 14-01-2021, của Viện Kiểm sát nhân dân quận Hồng Bàng đã quyết định truy tố các bị cáo PVC và MVC về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy", theo điểm b khoản 3 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, Kiểm sát viên đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Hồng Bàng giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Giữ nguyên quan điểm truy tố đối với các bị cáo PVC và MVC về tội danh và điều luật như nội dung Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Căn cứ điểm b khoản 3 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 (áp dụng thêm khoản 2 Điều 51 đối với bị cáo PVC); điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 58; Điều 38 Bộ luật Hình sự; tuyên phạt: Bị cáo PVC từ 12 năm 06 tháng đến 13 năm 06 tháng tù; bị cáo MVC từ 11 đến 12 năm tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù đều tính từ ngày tạm giữ 30-5-2020.

Miễn áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo và buộc các bị cáo đều phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy lượng ma túy còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì thư có dấu niêm phong số 304/2020/PC09 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hải Phòng. Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Vsmat mầu đen có gắn hai sim, số ICCID là: 8401190333259937WD và 898402000010998228530; trả lại cho bị cáo PVC 01 (một) ví giả da mầu đen và số tiền 297.000 đồng nhưng tạm giữ lại để đảm bảo thi hành án.

Đối với chiếc xe môtô HONDA biển kiểm soát 16M3-7679 tài liệu điều tra chưa xác định được chủ sở hữu hợp pháp nên tiếp tục, điều tra xử lý sau.

Đối với người phụ nữ tên O đã bán ma túy cho PVC, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Hồng Bàng đã tiến hành xác minh tại Công an phường Kênh Dương, quận Lê Chân cung cấp: Nguyễn Thị O, sinh năm 1962; địa chỉ: Số 23 Y, Z, Lê Chân. Cơ quan điều tra đã cho nhận dạng qua ảnh nhưng PVC không nhận dạng được. Triệu tập ghi lời khai của Nguyễn Thị O kết quả O khai không có việc bán ma túy và không quen biết người có tên PVC. O có sử dụng số điện thoại 0936313468 nhưng đã bị mất cách đây một năm và hiện đang sử dụng số điện thoại 0936928001. Người nam giới điều khiển xe môtô H ND SH đi cùng O tài liệu điều tra chưa xác định được nhân thân nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Hồng Bàng tiếp tục điều tra, xác minh làm r xử lý sau.

Đối với việc ngày 29-5-2020 PVC, MVC và M cùng sử dụng ma túy tại nhà của M ở N, thành phố A, Cơ quan điều tra Công an quận Hồng Bàng gửi Công văn số 1111 ngày 17-12-2020 và chuyển toàn bộ tài liệu có liên quan đến Cơ cảnh sát quan điều tra Công an thành phố Hải Dương để xử lý.

Nội dung lời nói sau cùng của các bị cáo: Các bị cáo đều đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nh về hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Hồng Bàng, Điều tra viên được phân công điều tra vụ án, Viện Kiểm sát nhân dân quận Hồng Bàng, Kiểm sát viên được phân công kiểm sát điều tra và kiểm sát xét xử, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện, tuân thủ đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và xét xử tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác trong vụ án không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử vụ án đều hợp pháp.

- Về tội danh và áp dụng hình phạt:

[2] Chứng cứ xác định bị cáo có tội: Tại phiên tòa, các bị cáo PVC và MVC đã khai nhận toàn bộ nội dung sự thực hiện hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân quận Hồng Bàng đã truy tố.

[3] Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng, người chứng kiến, phù hợp với vật chứng đã thu giữ cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án nên đã có đủ cơ sở kết luận các bị cáo PVC và MVC đã đồng phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại Điều 249 Bộ luật Hình sự.

[4] Lượng ma túy các bị cáo đã cất giấu trái phép đã được gửi giám định. Tại Kết luận giám định số 304/KLGĐ-MT ngày 01-6-2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hải Phòng, kết luận: Chất tinh thể mầu trắng của mẫu 01 gửi giám định là ma túy, loại: Methamphetamine, có khối lượng: 12,30 gam. Chất bột mầu trắng của mẫu 02 gửi giám định là ma túy, loại Heroin, có khối lượng 18,74 gam”. Methamphetamine và Heroine là các chất ma túy cùng được quy định tại một điểm của Điều 249 Bộ luật Hình sự. Do vậy, cách tính tổng khối lượng ma túy mà các bị cáo đã cất dấu, tàng trữ trái phép là: 12,30 gam (Methamphetamine) +18,74 gam (Heroine) = 31,04 gam. Như vậy, với lượng ma túy đã thu giữ là trên 30 gam thì các bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng định khung hình phạt quy định tại điểm b khoản 3 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân quận Hồng Bàng truy tố các bị cáo PVC và Hiệp về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm b khoản 3 Điều 249 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[5] Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm hại đến các quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy, gây mất trật tự trị an xã hội. Các bị cáo phạm tội rất nghiêm trọng nên cần phải xử lý nghiêm, cách ly các bị cáo khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục đối với các bị cáo và phòng ngừa chung.

[6] Xét về vai trò của các bị cáo: Trong vụ án, bị cáo PVC là người chủ mưu và trực tiếp thực hiện việc giao dịch mua ma túy, còn bị cáo MVC chỉ là người đi cùng và điều khiển xe mô tô để chở bị cáo PVC nên đánh giá vai trò và mức độ hành vi phạm tội thì bị cáo PVC có vai trò chính và cao hơn so với bị cáo MVC.

[7] Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo PVC có hai tiền án, trong đó có một tiền án về tội rất nghiêm trọng chưa được xóa án, lần này bị cáo lại phạm tội rất nghiêm trọng nên phải chịu tình tiết tăng nặng "Tái phạm nguy hiểm" và bị cáo MVC có một tiền án chưa được xóa án, lần này bị cáo phạm tội rất nghiêm trọng nên bị cáo chịu tình tiết tăng nặng "Tái phạm" theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[8] Về tình tiết giảm nh : Các bị cáo thành khẩn khai báo nên đều được hưởng tình tiết giảm nh trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo PVC có thời gian tham gia quân đội nên được hưởng thêm tình tiết giảm nh trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[9] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự thì các bị cáo còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng. Xét các bị cáo đều là người không có việc làm và thu nhập ổn định và không xác định được các bị cáo có tài sản riêng nên miễn áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng quy định tại Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự để xử lý các vật chứng như sau:

[10] Khi bắt giữ các bị cáo Cơ quan điều tra đã thu giữ các vật chứng gồm: Lượng ma túy mà các bị cáo đã tàng trữ trái phép; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Vsmat mầu đen có gắn hai sim có số ICCID là: 8401190333259937WD và 898402000010998228530; 01 (một) ví giả da mầu đen và số tiền 297.000 đồng.

[11] Lượng ma túy còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì thư có dấu niêm phong số 304/2020/PC09 là số ma túy mà các bị cáo đã tàng trữ trái phép, là vật nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy.

[12] Chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Vsmat mầu đen có gắn hai sim có số ICCID là: 8401190333259937WD và 898402000010998228530 là tài sản riêng của bị cáo PVC được sử dụng vào việc phạm tội nên cần tịch thu sung quỹ Nhà nước.

[13] Đối với 01 (một) ví giả da mầu đen và số tiền 297.000 đồng, qua điều tra xác định đây là tài sản riêng của bị cáo PVC và không liên quan đến tội phạm nên cần trả lại cho bị cáo nhưng tạm giữ lại để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ nộp khoản tiền án phí hình sự sơ thẩm mà bị cáo PVC phải chịu.

[14] Đối với chiếc xe môtô H ND biển kiểm soát 16M3-7679 tài liệu điều tra chưa xác định được chủ sở hữu hợp pháp nên tiếp tục, điều tra xử lý sau.

[15] Đối với người phụ nữ tên O bán ma túy cho PVC, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Hồng Bàng đã tiến hành xác minh tại Công an phường Kênh Dương, quận T cung cấp: Nguyễn Thị O, sinh năm 1962; địa chỉ: Số 23 Y, Z, T. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Hồng Bàng cho nhận dạng qua ảnh, kết quả PVC không nhận dạng được người bán ma túy cho PVC. Triệu tập ghi lời khai của Nguyễn Thị O kết quả O khai không có việc bán ma túy và không quen biết người có tên PVC. O có sử dụng số điện thoại 0936313468 nhưng đã bị mất cách đây một năm, hiện đang sử dụng số điện thoại 0936928001 nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Hồng Bàng tiếp tục điều tra, xác minh làm r xử lý sau.

[16] Đối với người nam giới điều khiển xe môtô H ND SH đi cùng O tài liệu điều tra chưa xác định được nhân thân nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Hồng Bàng tiếp tục điều tra, xác minh làm r xử lý sau.

[17] Đối với việc ngày 29-5-2020 PVC, MVC và M cùng sử dụng ma túy tại nhà của Tình ở Phú Tảo, Thạch Khôi, thành phố D, tỉnh Hải Dương, Cơ cảnh sát quan điều tra Công an quận Hồng Bàng gửi Công văn số 1111 ngày 17-12-2020 và chuyển toàn bộ tài liệu có liên quan đến Cơ quan cảnh sát quan điều tra Công an thành phố Hải Dương để xử lý.

[18] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b khoản 3 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 17; điều 58 và Điều 38 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo PVC 12 (mười hai) năm 06 (sáu) tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy . Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, ngày 30-5-2020.

Căn cứ vào điểm b khoản 3 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 58 và Điều 38 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo MVC 11 (mười một) năm tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy . Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, ngày 30-5-2020.

Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;

- Tịch thu tiêu hủy lượng ma túy còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì thư có dấu niêm phong số 304/2020/PC09 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hải Phòng.

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Vsmat mầu đen, gắn hai sim có số ICCID là: 8401190333259937WD và 898402000010998228530 (Đặc điểm vật chứng theo Biên bản giao nhận giữa Công an quận Hồng Bàng và Chi cục Thi hành án dân sự quận Hồng Bàng ngày 26-01-2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Hồng Bàng).

- Trả lại cho bị cáo PVC 01 (một) ví giả da mầu đen và số tiền 297.000 đồng của bị cáo PVC không liên quan đến tội phạm nhưng tạm giữ để đảm bảo nghĩa vụ thi hành án (Theo biên lai thu tiền số: /2010/7619, ngày 15-01-2021 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Hồng Bàng).

Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội: Các bị cáo PVC và MVC đều phải chịu mỗi người 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

153
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 18/2021/HS-ST

Số hiệu:18/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hồng Bàng - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về