Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 180/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ Đ - THÀNH PHỐ M

BẢN ÁN 180/2022/HS-ST NGÀY 27/05/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đ, Thành phố M xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 133/2022/HSST ngày 20/4/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 196/2022/QĐXXST-HS ngày 13/05/2022, đối với bị cáo:

Bùi Minh H; sinh năm 1987 tại Thành phố M; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: 28 Đường số 35, Khu phố 2, phường LĐ, thành phố Đ, Thành phố M; Nơi cư trú: Không ổn định; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá (học vấn): 02/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Công giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Văn C và bà Nguyễn Thị M; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án: Không, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/01/2022 đến nay.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

[1]. Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 15/01/2022, Công an phường TB, thành phố Đ tuần tra trước bãi đất trống đối diện TBchung cư N Đường 11, Khu phố 4, phường TB, thành phố Đ phát hiện Bùi Minh H có biểu hiện nghi vấn. Khi tổ tuần tra đến gần thì H dùng tay trái ném 01 gói nylon bên trong có tinh thể không màu ra bãi cỏ. Tổ tuần tra tiến hành kiểm tra người của H thì phát hiện trong túi quần phía sau bên trái có 01 ví chứa tiền màu nâu, bên trong ngăn nhỏ của ví có 01 gói nylon chứa tinh thể không màu, nên đưa H về công an phường TB lập biên bản phạm tội quả tang. Tại Cơ quan điều tra ,H khai nhận là người nghiện ma túy và khoảng 8 giờ ngày 14/01/2022,H gọi điện thoại vào số máy 09069X96 gặp một phụ nữ không rõ lai lịch hỏi mua ma túy giá 500.000 (năm trăm ngàn) đồng thì người này đồng ý. Sau đó, người phụ nữ này yêu cầu H chuyển tiền qua ví Momo và hẹn gặp tại siêu thị Coopmax phường TB. Khi H chuyển tiền khoảng 40 phút sau, có 01 người đàn ông chạy mô tô không rõ biển số đến giao ma túy cho H. H nhận gói ma túy và chia thành 02 gói nhỏ, 01 gói cất trong bóp, 01 gói để vào túi quần sử dụng dần. Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 15/01/2022, tại bãi đất trống đối diện chung cư Navita, H đang đi dạo chơi nhìn thấy công an, H đã lấy 01 gói ma túy ném ra bãi cỏ sau lưng thì bị bắt giữ.

Kết luận giám định số 717/KLGĐ-H ngày 21/01/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố M xác định:

- Gói 01: Tinh thể không màu trong 01 gói nylon được niêm phong gửi đến giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,2644g, loại Methamphetamine.

- Gói 02: Tinh thể không màu trong 01 gói nylon được niêm phong gửi đến giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,1989g, loại Methamphetamine.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra, Bùi Minh H khai nhận toàn bộ nội dung phạm tội như đã nêu trên.

Vật chứng vụ án:

- Gói 01: Gói niêm phong bên ngoài ghi vụ số 717 có chữ ký của Giám định viên và cán bộ điều tra, bên trong là ma túy còn lại sau khi giám định, có khối lượng 0,1316g, loại Methamphetamine và gói 02: Gói niêm phong bên ngoài ghi vụ số 717 có chữ ký của Giám định viên và cán bộ điều tra, bên trong là ma túy còn lại sau khi giám định, có khối lượng 0,0950g loại Methamphetamine;

- 01 ví màu nâu;

- 01 điện thoại di động hiệu Vivo;

- 01 xe mô tô loại biển số 59X3-10407.

Tại Bản Cáo trạng số 141/CT-VKSTPTĐ ngày 14/4/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ đã truy tố bị cáo Bùi Minh H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[2]. Tại phiên tòa:

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo H về tội danh, khung hình phạt, điều luật áp dụng, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như nội dung bản cáo trạng đã nêu và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, Xử phạt: Bị cáo Bùi Minh H từ 01 năm 06 tháng tù đến 02 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 15/01/2022.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị tịch thu, tiêu hủy đối với lượng ma túy còn lại và 01 chiếc ví màu nâu. Sung công quỹ 01 điện thoại di động hiệu Vivo.

Bị cáo Bùi Minh H khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về thủ tục tố tụng:

Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật. Quá trình điều tra, truy tố và xét xử tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Trong quá trình điều tra, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như cáo trạng đã nêu. Lời khai của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội, của người làm chứng, kết luận giám định... và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 10 giờ 30 phút ngày 15/01/2022, trước bãi đất trống đối diện chung cư N Đường 11, Khu phố 4, phường TB, thành phố Đ phát hiện Bùi Minh H có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,4633gam, loại Methamphetamine, mục đích để sử dụng.

Hành vi của bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 như kết luận của Kiểm sát viên. Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố các bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Đối với người phụ nữ bán bán ma túy và người đàn ông giao ma túy cho H, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã có xác minh thông tin chủ ví Momo có số điện thoại 09069X96 cùng các giao dịch chuyển tiền và xác minh chủ số thuê bao này nhưng đến nay chưa có kết quả trả lời. Khi có kết quả sẽ xem xét xử lý sau đối với đối tượng bán và giao ma túy.

[3]. Về tình tiết định khung hình phạt:

Lượng ma túy tàng trữ có khối lượng 0,4633gam, loại Methamphetamine, thuộc trường hợp:

“1. Người nào tang trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau sau đây thì phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

…… c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine….. có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;” Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[4]. Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự áp dụng đối với bị cáo:

Về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

Về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Xét trong quá trình điều tra bị cáo đã thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải nên áp dụng quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

[5]. Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội, hình phạt đối với bị cáo:

Hội đồng xét xử đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, hành vi phạm tội của bị cáo là cố ý, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền của Nhà nước trong quản lý, tàng trữ các chất ma túy, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội, làm tiền đề phát sinh nhiều tội phạm, tệ nạn xấu trong xã hội. Do đó cần phải xử phạt bị cáo với mức án tương xứng, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục bị cáo nói riêng và đấu tranh phòng ngừa tội phạm nói chung trong toàn xã hội.

[6]. Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có thu nhập ổn định nên miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7]. Về xử lý vật chứng:

Căn cứ điểm a, c Khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 và Khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, xét:

- Gói 01: Gói niêm phong bên ngoài ghi vụ số 717 có chữ ký của Giám định viên và cán bộ điều tra, bên trong là ma túy còn lại sau khi giám định, có khối lượng 0,1316g loại Methamphetamine và gói 02: Gói niêm phong bên ngoài ghi vụ số 717 có chữ ký của Giám định viên và cán bộ điều tra, bên trong là ma túy còn lại sau khi giám định, có khối lượng 0,0950g loại Methamphetamine, đây là vật nhà nước cấm lưu hành nên tịch thu và tiêu hủy.

- 01 chiếc ví màu nâu đây là phương tiện, công cụ phạm tội tịch thu và tiêu hủy;

- 01 điện thoại di động hiệu Vivo đây là phương tiện, công cụ phạm tôi nên tịch thu sung quỹ Nhà nước;

- 01 xe mô tô loại biển số 59X3-10407, qua xác minh, chiếc xe do Bùi Minh H (là em của Bùi Minh H) đứng tên sở hữu. H đã cho H mượn chiếc xe này làm phương tiện đi lại khoảng 04 (bốn) tháng trước khi H bị bắt. Việc H dùng chiếc xe trên đi mua ma túy anh H không biết. Cơ quan điều tra đã trả lại xe cho anh Bùi Minh H.

[8]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

[9]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Áp dụng Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, Tuyên bố bị cáo Bùi Minh H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt: Áp dụng điểm c Khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, Xử phạt bị cáo Bùi Minh H 01 năm 06 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 15/01/2022.

3.Về xử lý vật chứng:

Áp dụng điểm a, c Khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm Khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 2015:

- Tịch thu và tiêu hủy đối với: Gói 01: Niêm phong bên ngoài ghi vụ số 717 có chữ ký của Giám định viên và cán bộ điều tra, bên trong là ma túy còn lại sau khi giám định, có khối lượng 0,1316g loại Methamphetamine và gói 02: Niêm phong bên ngoài ghi vụ số 717 có chữ ký của Giám định viên và cán bộ điều tra, bên trong là ma túy còn lại sau khi giám định, có khối lượng 0,0950g loại Methamphetamine - Tịch Thu và tiêu hủy 01 chiếc ví màu nâu;

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Vivo. (Theo Phiếu nhập kho ngày 25/04/2022)

3. Về án phí:

Căn cứ vào khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, Buộc bị cáo nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào Điều 331; Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

11
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 180/2022/HS-ST

Số hiệu:180/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân TP. Thủ Đức - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về