Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 180/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN THIẾT, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 180/2021/HS-ST NGÀY 02/12/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 02 tháng 12 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phan Thiết xét xử công khai vụ án hình sự thụ lý số 170/2021/HSST ngày 22 tháng 10 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 349/2021/HSST-QĐ ngày 08/11/2021; Thông báo số 71/TB-TA ngày 19/11/2021 và Thông báo số 372/2021/TB-HS ngày 30/11/2021 đối với bị cáo:

HUỲNH VĂN T (tên gọi khác: Không có) - sinh ngày 18/4/1996, tại BT; Nơi cư trú: Khu phố 3, phường L, thành phố P, tỉnh B; Giới tính: Nam; Trình độ học vấn: 07/12; Nghề nghiệp: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông: Huỳnh Văn T, sinh năm 1971 và bà Phùng Thị G, sinh năm 1972; Cùng trú tại: Khu phố 3, phường L, thành phố P, tỉnh B; Chung sống như vợ chồng với bà Phùng Hạ Trúc A, sinh năm 1997, con: có 02 con chung, nhỏ nhất sinh năm 2021.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn: “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1/ Huỳnh Hữu T, sinh năm 1991 (vắng mặt) Nơi cư trú: Khu phố 1, phường L, thành phố P, B.

2/ Nguyễn Văn G, sinh năm 2000 (vắng mặt) Nơi cư trú: Thôn Đ 1, xã H, huyện H, tỉnh B.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 11 giờ 40 phút ngày 25/5/2021, Huỳnh Văn T điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 86C1 - 650.02 chở Nguyễn Văn G đi chơi. Khi đi đến hẻm chùa P, thuộc phường L, thành phố P thì dừng xe và nói G đứng trước hẻm chờ, còn T đi vào hẻm gặp một người tên T hỏi mua ma túy. Khi gặp T, T hỏi mua ma túy với giá 300.000 đồng thì T đồng ý bán. Sau khi đưa tiền cho T, T nhận từ T 01 đoạn ống nhựa không màu được hàn kín một đầu, một đầu hở được gập lại, bên trong đoạn ống nhựa có chứa chất tinh thể màu trắng. Sau khi mua được ma túy, Tùng cất giấu ma túy vào trong túi quần phía trước bên phải của mình rồi điều khiển xe chở Giàu đến nhà bạn của Tùng tên là Đ (không rõ nhân thân) để sử dụng ma túy. Đến khoảng 12 giờ 10 phút cùng ngày, khi T điều khiển xe chở G đến trước số nhà 20 hẻm đường D (khu phố B, phường T, thành phố P) thì T bị Tổ công tác thuộc Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy – Công an tỉnh B phối hợp với Công an phường T, thành phố P yêu cầu dừng xe kiểm tra hành chính. Qua kiểm tra, phát hiện T có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy trong túi quần phía trước bên phải của mình. Công an đã thu giữ tang vật có liên quan và đưa T về trụ sở làm việc. Tại Cơ quan Công an, T khai nhận toàn bộ hành vi của mình như trên.

Vật chứng của vụ án:

- 01 đoạn ống nhựa không màu được hàn kín một đầu, hở một đầu được gập lại, kích thước khoảng (4,5 x 02) cm, bên trong đoạn ống nhựa này có chứa chất tinh thể màu trắng, được thu giữ trong túi quần phía trước bên phải của Huỳnh Văn T (ký hiệu là M), T khai đây là ma túy đá T mua để sử dụng;

- 01 (một) điện thoại di động màu đen, loại cảm ứng, mặt trước và mặt sau có chữ “SAMSUNG”, bên trong có sim số 0824.938.582, được thu giữ trong túi quần phía trước bên trái của Huỳnh Văn T;

- 01 (một) xe mô tô mang biển kiểm soát 86C1-650.02.

Tại bản kết luận giám định số 644/KLGĐ-PC09 ngày 31/5/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh B kết luận: Mẫu M gửi giám định có khối lượng 0,5053 gam, là Methamphetamine.

Hoàn lại mẫu vật gửi đến giám định:

01 (một) đoạn ống nhựa không màu được hàn kín một đầu, hở một đầu được gập lại, kích thước khoảng (4,5 x 02) cm và 0,4457 gam mẫu M còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 644, có chữ ký của Giám định viên Nguyễn Hồng T và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh B.

Xử lý vật chứng:

Hiện các mẫu còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 644, có chữ ký của Giám định viên Nguyễn Hồng T và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh B, Viện kiểm sát nhân dân thành phố P đã ra Quyết định chuyển vật chứng đến Chi cục thi hành án dân sự thành phố P để bảo quản chờ xử lý.

Đối với chiếc điện thoại di động màu đen, loại cảm ứng, mặt trước và mặt sau có chữ “SAMSUNG”, bên trong có sim số 0824.938.582 của Huỳnh Văn T, quá trình điều tra, xác định chiếc điện thoại trên không liên quan đến hoạt động phạm tội của bị cáo nên Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố P ra Quyết định trả lại điện thoại cho T.

Đối với xe mô tô mang biển kiểm soát 86C1-650.02, quá trình điều tra, xác định chiếc xe mô tô trên do bà Nguyễn Thị G (mẹ của T) làm chủ sở hữu, T tự lấy xe đi nên Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố P ra Quyết định trả lại chiếc xe trên cho bà G.

Quá trình điều tra, Huỳnh Văn T khai nhận nguồn gốc ma túy nêu trên là do đối tượng T bán cho T. Cơ quan điều tra đã xác định được Trung là Huỳnh Hữu T (sinh năm: 1991, trú tại: khu phố 1, phường L, thành phố P). Tuy nhiên, Huỳnh Hữu T không thừa nhận hành vi bán trái phép chất ma túy cho T vào ngày 25/5/2021. Ngoài lời khai của Huỳnh Văn T thì không còn chứng cứ nào khác nên không có căn cứ để khởi tố đối tượng Huỳnh Hữu T. Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra xác minh làm rõ và xử lý sau.

Tại các lời khai, biên bản hỏi cung bị cáo, biên bản ghi lời khai của người làm chứng trong quá trình điều tra đều thể hiện bị cáo Huỳnh Văn T có hành vi tàng trữ trái phép 0,5053 gam Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng thì bị phát hiện, bắt quả tang.

Với hành vi nêu trên, ngày 16/10/2020 Viện kiểm sát nhân dân thành phố P ra bản cáo trạng số 176/CT-VKS truy tố bị cáo T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 01 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố P phát biểu lời luận tội và tranh luận: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thừa nhận hành vi tàng trữ trái phép 0,5053 gam Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng. Do đó Viện kiểm sát nhân dân thành phố P giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị HĐXX tuyên bố bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 01 Điều 249 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên khi quyết định hình phạt đề nghị xem xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự vì bị cáo Huỳnh Văn T không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải với hành vi phạm tội của mình, là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Qua đó đề nghị Hội đồng xét xử, áp dụng điểm c khoản 01 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Huỳnh Văn T từ 18 tháng tù đến 24 tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tuyên tịch thu tiêu hủy các mẫu vật còn lại sau giám định, được niêm phong trong phong bì số 644, có chữ ký của giám định viên Nguyễn Hồng T và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh B và tịch thu tiêu hủy 01 hộp da màu đen, hình hộp chữ nhật, có kích thước khoảng 8,5 x 6,5x 3) cm.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo không trình bày lời bào chữa cũng như không có ý kiến về lời luận tội của Viện kiểm sát đồng thời thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội và đồng ý với quan điểm truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố P.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa;

Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác,

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố P, Viện kiểm sát nhân dân thành phố P, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, trình tự thủ tục tố tụng cũng như các quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, trình tự thủ tục tố tụng cũng như các quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về chứng cứ buộc tội bị cáo: Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung cáo trạng đã nêu, bị cáo thừa nhận cáo trạng truy tố là đúng, không oan. Lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, cũng như lời khai của người làm chứng và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 12 giờ 00 phút ngày 25/5/2021, tại vị trí trước số nhà 20 trong hẻm đường D, khu phố B, phường T, thành phố P, Huỳnh Văn T có hành vi tàng trữ trái phép 0,5053 gam Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng thì bị phát hiện bắt giữ.

[3] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo: Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách quản lý độc quyền của nhà nước về chất ma túy; bị cáo là người có đầy đủ khả năng nhận thức cũng như khả năng điều khiển hành vi và thực hiện hành vi phạm tội một cách cố ý. Do đó Cáo trạng số 176/CT-VKS ngày 16/10/2021 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố P truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 01 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ.

Huỳnh Văn T biết Methamphetamine là ma túy nằm trong danh mục nhà nước độc quyền quản lý, nghiêm cấm tàng trữ trái phép vì hậu quả nguy hại của nó đối với sức khỏe con người và trật tự trị an xã hội nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi tàng trữ ma túy để sử dụng. Hành vi này không những xâm phạm đến chính sách quản lý của nhà nước về chất ma túy, mà còn gây mất trật tự trị an xã hội nên cần phải xử phạt một mức án tù tương xứng nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo T không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải với hành vi phạm tội của mình là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 01 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Về xử lý vật chứng:

Đối với chiếc điện thoại di động màu đen, loại cảm ứng, mặt trước và mặt sau có chữ “SAMSUNG”, bên trong có sim số 0824.938.582 của Huỳnh Văn T, quá trình điều tra, xác định chiếc điện thoại trên không liên quan đến hoạt động phạm tội của bị cáo nên Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố P ra Quyết định trả lại điện thoại cho T nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với xe mô tô mang biển kiểm soát 86C1-650.02, quá trình điều tra, xác định chiếc xe mô tô trên do bà Nguyễn Thị G làm chủ sở hữu, T tự lấy xe đi nên Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố Phan Thiết ra Quyết định trả lại chiếc xe trên cho bà G nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với các mẫu vật còn lại sau giám định, được niêm phong trong phong bì số 644, có chữ ký của giám định viên Nguyễn Hồng T và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh B là vật nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu, tiêu hủy.

Đối với Nguyễn Văn G, quá trình điều tra xác định G không biết về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của T nên không có cơ sở xử lý hình sự.

Đối với Huỳnh Hữu T quá trình điều tra T không thừa nhận hành vi bán trái phép chất ma túy cho Tùng vào ngày 25/5/2021. Ngoài lời khai của Huỳnh Văn T thì không còn chứng cứ nào khác nên không có căn cứ để khởi tố đối tượng Huỳnh Hữu T. Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra xác minh làm rõ và xử lý sau là có cơ sở.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

* Căn cứ: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

* Tuyên bố: Bị cáo Huỳnh Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

* Xử phạt: Bị cáo Huỳnh Văn T 18 (mười tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án nhưng được khấu trừ thời gian tạm giữ trước đó từ ngày 25/5/2021 cho đến ngày 03/6/2021.

* Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy: Một phong bì niêm phong số 644 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh B, có chữ ký của giám định viên Nguyễn Hồng T và hình dấu tròn màu đỏ của phòng kỹ thuật hình sự (PC09) Công an tỉnh B.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng số 18 ngày 05/11/2021 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố P).

* Về án phí: Áp dụng Điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Huỳnh Văn T nộp 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm.

Quyền kháng cáo của bị cáo là 15 ngày tròn kể từ ngày tuyên án (02/12/2021), của người liên quan là 15 ngày kể từ ngày tống đạt bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

155
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 180/2021/HS-ST

Số hiệu:180/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Thiết - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về