Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 178/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỘC CHÂU, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 178/2022/HS-ST NGÀY 22/09/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22 tháng 9 năm 2022, tại điểm cầu trung tâm trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La và điểm cầu thành phần nhà tạm giữ Công an huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La xét xử trực tuyến sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 175/2022/TLST-HS ngày 31/8/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 178/2022/QĐXXST- HS ngày 12/9/2022 đối với các bị cáo:

1. Lò Văn T, sinh năm 1976 tại huyện T, tỉnh Sơn La; Nơi cư trú: Bản N, xã M, huyện T, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 0/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; đảng phái, đoàn thể: Không; con ông Lò Văn K và bà Lò T; bị cáo có vợ là Lường Thị D và 02 con; tiền án, tiền sự: Không. Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 16/6/2022 đến nay. Tham gia phiên tòa tại điểm cầu thành phần, có mặt.

2. Vì Văn E, sinh năm 1988 tại huyện M, tỉnh Sơn La; Nơi cư trú: Tiểu khu X, xã C, huyện M, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 0/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; đảng phái, đoàn thể: Không; con ông Vì V và bà Lò Thị K (Đã chết), bị cáo có vợ là Đinh Thị L và 02 con; tiền án, tiền sự: Không. Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 16/6/2022 đến nay. Tham gia phiên tòa tại điểm cầu thành phần, có mặt.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Chị Đinh Thị L, sinh năm 1995. Nơi cư trú: Tiểu khu X, xã C, huyện M, tỉnh Sơn La. Tham gia phiên tòa tại điểm cầu trung tâm, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 14h00’ ngày 16/6/2022, tổ công tác Công an xã Đ làm nhiệm vụ tại khu vực bản T, xã Đ, huyện M, tỉnh Sơn La đã tiến hành dừng xe, kiểm tra đối với Lò Văn T và Vì Văn E đang điều khiển xe mô tô BKS: 26B1-723.98 đi trên đường. Qua kiểm tra phát hiện T đang cất giấu trong lòng bàn tay 01 gói nilon màu trắng, bên trong đựng 02 gói giấy bạc màu vàng, 01 gói giấy bạc màu vàng đựng cục chất bột màu trắng còn 01 gói đựng 01 viên nén màu hồng nghi là ma túy. T và E khai nhận đó là ma tuý Heroine, hồng phiến mục đích sử dụng cho bản thân nghiện chất ma tuý. Căn cứ hành vi vi phạm của Lò Văn T và Vì Văn E, tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ niêm phong vật chứng và bàn giao Lò Văn T, Vì Văn E cho Cơ quan CSĐT Công an huyện Mộc Châu để điều tra làm rõ.

Cùng ngày, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu tiến hành xác định tổng khối lượng cục chất bột màu trắng thu giữ là 0,13 gam; lấy toàn bộ làm mẫu gửi giám định, ký hiệu T1; khối lượng viên nén màu hồng là 0,09 gam, lấy toàn bộ làm mẫu gửi giám định, ký hiệu T2.

Tại Kết luận giám định số 1080 ngày 21/6/2022, của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, kết luận:

- Mẫu gửi giám định ký hiệu T1 là ma túy; loại Heroine khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,13 gam.

- Mẫu gửi giám định ký hiệu T2 là ma túy; loại Methamphetamine khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,09 gam.

Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,09 gam; loại Methamphetamine và 0,13 gam loại Heroine.

Quá trình điều tra Lò Văn T và Vì Văn E khai nhận: Bản thân đều nghiện chất ma túy và cùng làm thuê tại tiểu khu Z, thị trấn M, huyện M, tỉnh Sơn La. Khoảng 12h30’ ngày 16/6/2022, T rủ E đi mua ma túy Heroine về để cùng nhau sử dụng, E đồng ý và sử dụng chiếc xe máy BKS: 26B1-723.98 chở T đi đến bản C xã Đ, huyện M tìm mua ma túy. Khi đi đến khu vực sân bóng thuộc bản C, xã Đ thì gặp một người đàn ông dân tộc Mông không quen biết, qua trao đổi E và T đã mua được của người đàn ông đó 01 gói Heroine được bọc bằng giấy màu trắng và 01 viên hồng phiến với giá 150.000đ. E đưa số ma túy vừa mua được cho T cất giấu rồi điều khiển xe chở T đi về. Khi T và E đi đến khu vực bản T, xã Đ, huyện M, tỉnh Sơn La thì bị tổ công tác Công an xã Đ kiểm tra, phát hiện và bắt giữ.

Tại bản Cáo trạng số 141/CT- VKS ngày 31 tháng 8 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La đã truy tố các bị cáo Lò Văn T, Vì Văn E về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố: Các bị cáo Lò Văn T, Vì Văn E phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy và đề nghị áp dụng các căn cứ pháp luật xử lý đối với các bị cáo như sau:

- Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Lò Văn T từ 21 tháng đến 24 tháng tù.

- Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Vì Văn E từ 21 tháng đến 24 tháng tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung (Phạt tiền) đối với các bị cáo - Về vật chứng của vụ án: Đề nghị áp dụng khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự và khoản 1, điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu, tiêu hủy: 01 (một) phong bì có ghi dòng chữ: Vật chứng vụ: Lò Văn T và Vì Văn E Tàng trữ trái phép chất ma túy, ngày 16/6/2022 (01 (một) mảnh nilon màu trắng, 02 (hai) mảnh giấy bạc màu vàng và phong bì niêm phong ban đầu); 01 (một) phong bì có ghi dòng chữ: test thử ma túý của Vì Văn E, ngày 16/6/2022, kq: Dương tính và 01 (một) phong bì có ghi dòng chữ: test thử ma túý của Lò Văn T, ngày 16/6/2022, kq: Dương tính.

Tuyên trả 01 chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA, màu xanh đen, kiểu xe WAVES, BKS: 26B1 – 723.98 cho chị Đinh Thị L

- Về án phí: Đề nghị áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Vì Văn E phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Bị cáo Lò Văn T là người dân tộc thiểu số sống ở xã có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn. Đề nghị áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12, khoản 6 Điều 15 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Lò Văn T.

Sau khi đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm xử lý các vấn đề của vụ án các bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan hoàn toàn nhất trí với quan điểm của đại diện Viện Kiểm sát. Các bị cáo có lời nói sau cùng xin được giảm nhẹ mức hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[ ] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Mộc Châu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[ ] Về tội danh: Tại phiên tòa các bị cáo Lò Văn T, Vì Văn E khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã khai tại cơ quan Điều tra, số ma túy bị tổ công tác Công an xã Đ, huyện M thu giữ có nguồn gốc của các bị cáo mua được của một người đàn ông không quen biết với giá 150.000đ vào ngày 16/6/2022, mục đích để cùng nhau sử dụng. Lời khai của các bị cáo không có nội dung gì thay đổi so với lời khai tại Cơ quan cảnh sát điều tra, các bị cáo khẳng định việc khai báo tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa ngày hôm nay là hoàn toàn tự nguyện và đúng với hành vi đã thực hiện.

Xét lời khai của các bị cáo là hoàn toàn tự nguyện và phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang; biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ; biên bản mở niêm phong xác định khối lượng lấy mẫu giám định; kết luận giám định; lời khai của người chứng kiến và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Căn cứ quy định tại Điều 4, Chương II Nghị định số 19/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 của Chính phủ quy định về việc tính tổng khối lượng hoặc thể tích chất ma túy tại một số điều của Bộ luật hình sự thì tổng khối lượng các chất ma túy Heroine và Methamphetamine Lò Văn T, Vì Văn E phải chịu trách nhiệm hình sự là 0,09 gam Methamphetamine + 0,13 gam Heroine = 0,22 gam.

Từ những chứng cứ nêu trên HĐXX có đủ căn cứ kết luận: Các bị cáo Lò Văn T, Vì Văn E là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được tác hại của việc Tàng trữ, sử dụng ma túy nhưng do nghiện chất ma túy nên ngày 16/6/2022 các bị cáo Lò Văn T, Vì Văn E đã có hành vi tàng trữ 0,09 gam Methamphetamine + 0,13 gam Heroine nhằm mục đích để cùng nhau sử dụng. Hành vi trên của các bị cáo đã phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy, theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định mức hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

Về tình tiết định khung hình phạt: Hành vi của các bị cáo Lò Văn T, Vì Văn E không vi phạm các tình tiết định khung tăng nặng khác nên chỉ bị xét xử ở điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Xét tính chất và mức độ tham gia của từng người đồng phạm:

Bị cáo Lò Văn T là người khởi xướng, bỏ tiền ra để mua ma túy và trực tiếp cất giấu ma túy nên bị cáo giữ vai trò chính trong vụ án.

Bị cáo Vì Văn E là người sử dụng xe máy chở Lò Văn T đi mua ma túy và là người trực tiếp giao dịch mua ma túy nên giữ vai trò đồng phạm trong vụ án.

Xét tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm: Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền của Nhà nước về quản lý các chất ma tuý, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự của các bị cáo: Các bị cáo không tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo: Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Về nhân thân: Các bị cáo có nhân thân xấu, đều là đối tượng nghiện chất ma túy.

Từ những đánh giá nêu trên Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng cải tạo, giáo dục đối với các bị cáo, đồng thời mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[3] Về hình phạt bổ sung (phạt tiền): Quá trình điều tra và thẩm vấn công khai tại phiên tòa hôm nay thấy rằng các bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, sống chung với gia đình, các bị cáo không có tài sản riêng có giá trị, do đó, không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

[ ] Về vật chứng, xử lý vật chứng:

Đối với 01 (một) phong bì có ghi dòng chữ: Vật chứng vụ: Lò Văn T và Vì Văn E Tàng trữ trái phép chất ma túy, ngày 16/6/2022 (01 (một) mảnh nilon màu trắng, 02 (hai) mảnh giấy bạc màu vàng và phong bì niêm phong ban đầu);

01 (một) phong bì có ghi dòng chữ: test thử ma túý của Vì Văn E, ngày 16/6/2022, kq: Dương tính và 01 (một) phong bì có ghi dòng chữ: test thử ma túý của Lò Văn T, ngày 16/6/2022, kq: Dương tính. Xét thấy, đây là những vật không có giá trị và không sử dụng được. Căn cứ khoản 1, điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA, màu xanh đen, kiểu xe WAVES, BKS: 26B1 – 723.98 xác định là tài sản chung vợ chồng của bị cáo Vì Văn E và chị Đinh Thị L. Việc bị cáo E sử dụng xe để cùng bị cáo T đi mua ma túy, chị L không biết và không liên quan đến hành vi phạm tội của các bị cáo. Căn cứ khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự cần tuyên trả lại chiếc xe máy trên cho chị Đinh Thị L.

[ ] Về các vấn đề khác:

Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho các bị cáo Lò Văn T và Vì Văn E như các bị cáo khai, quá trình điều tra không xác định được lai lịch, địa chỉ. Do đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu không có căn cứ để điều tra, làm rõ và xử lý.

[ ] Về án phí: Bị cáo Lò Văn T là người dân tộc thiểu số cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn. Tại phiên tòa bị cáo xin được miễn án phí. Căn cứ vào điểm đ khoản 1 Điều 12, khoản 6 Điều 15 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Buộc bị cáo Vì Văn E phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đ theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[7] Về thời hạn tạm giam của các bị cáo: Xét thấy,thời hạn tạm giam của các bị cáo còn lại dưới 45 ngày, do đó, Hội đồng xét xử Hội đồng xét xử ra quyết định tạm giam 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự. Tuyên bố bị cáo Lò Văn T phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Xử phạt bị cáo Lò Văn T 22 (Hai mươi hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù của bị cáo tính từ ngày 16/6/2022.

Không áp dụng hình phạt bổ sung (Phạt tiền) đối với bị cáo.

2. Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự. Tuyên bố bị cáo Vì Văn E phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Xử phạt bị cáo Vì Văn E 21 (Hai mươi mốt) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù của bị cáo tính từ ngày 16/6/2022.

Không áp dụng hình phạt bổ sung (Phạt tiền) đối với bị cáo

3. Về vật chứng của vụ án: Căn cứ khoản 1, 2 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 1, điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu, tiêu hủy: 01 (một) phong bì có ghi dòng chữ: Vật chứng vụ: Lò Văn T và Vì Văn E Tàng trữ trái phép chất ma túy, ngày 16/6/2022 (01 (một) mảnh nilon màu trắng, 02 (hai) mảnh giấy bạc màu vàng và phong bì niêm phong ban đầu); 01 (một) phong bì có ghi dòng chữ: test thử ma túý của Vì Văn E, ngày 16/6/2022, kq: Dương tính và 01 (một) phong bì có ghi dòng chữ: test thử ma túý của Lò Văn T, ngày 16/6/2022, kq: Dương tính theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 167/BBVC-CCTHA ngày 07/9/2022 giữa Công an huyện Mộc Châu và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mộc Châu.

Tuyên trả một chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA, màu xanh đen, kiểu xe WAVES, BKS: 26B1 – 723.98, sk: RLHJC5217CY292816, sm: JC52E - 4440703, không gương chiếu hậu, nhựa mặt bàn thờ ốp đèn pha vỡ, dây công tơ mét không có, không có hộp xích, cánh yếm 2 bên vỡ, gáy nhựa bắt yếm vỡ, xe đã qua sử dụng cho chị Đinh Thị L.

4. Về án phí:

Căn cứ vào điểm đ khoản 1 Điều 12, khoản 6 Điều 15 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Lò Văn T.

Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án buộc bị cáo Vì Văn E phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).

5. Về quyền kháng cáo bản án: Các bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

120
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 178/2022/HS-ST

Số hiệu:178/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mộc Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về