Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 178/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ P, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 178/2021/HS-ST NGÀY 01/12/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 01tháng 12 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố P, tỉnh Bình Thuận, Tòa án nhân dân thành phố P xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 166/2021/HSST ngày 19 tháng 10 năm 2021 đối với bị cáo:

PHAN THỊ NGỌC H, sinh năm: 1990, tại tỉnh Bình Thuận;

Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: khu phố 7, phường M, thành phố P, tỉnh Bình Thuận; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 5/12; dân tộc: kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phan Văn N và bà Nguyễn Thị T. Có 02 con.

Tiền sự : không; Tiền án: không.

Bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do có nhu cầu sử dụng ma túy nên khoảng 15 giờ ngày 09/6/2021, Phan Thị Ngọc H (sinh 1990, trú tại: khu phố 7, phường M, thành phố P) dùng điện thoại liên lạc với đối tượng tên Th (chưa rõ nhân thân) hỏi mua “hộp 10” ma túy đá thì Th đồng ý bán, báo giá là 4.500.000 đồng và hẹn sẽ giao ma túy tại nhà bị cáo H .

Đến khoảng 17 giờ cùng ngày, Th đến nhà H tại khu phố 7, phường M, thành phố P, giao cho bị cáo một gói nylon có khóa nhựa một đầu, bên trong có một túi nylon lớn và một túi nylon nhỏ, đều chứa ma túy đá thì bị cáo H đưa cho Th 4.500.000 đồng rồi bị cáo bỏ thêm vào gói nylon có chứa ma túy đá vừa mua một tép ma túy đá, được đựng trong một đoạn ống nhựa được hàn kín xung quanh (tép ma túy này bị cáo mua của Th khoảng 03 ngày trước đó) rồi cầm gói ma túy trên tay trái, đứng trước cổng nhà của bị cáo. Đến khoảng 18 giờ ngày 09/6/2021, tổ tuần tra Đồn Biên phòng M - Bộ chỉ huy Bộ đội biên phòng tỉnh Bình Thuận phối hợp với Công an phường M tuần tra đến, phát hiện bị cáo có nhiều biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra hành chính. Thấy vậy, bị cáo dùng tay trái ném xuống đất một gói nylon màu trắng, kích thước 06 x 10 cm, một đầu có khóa nhựa, bên trong có các túi nylon không màu và một đoạn ống nhựa được hàn kín xung quanh, đều chứa chất rắn màu trắng, cách vị trí bị cáo H đang đứng khoảng 02m nhưng tổ tuần tra đã phát hiện, thu giữ tang vật và triệu tập bị cáo về trụ sở Đồn Biên phòng M làm việc. Tại đây, bị cáo H khai nhận hành vi như nêu trên.

Vật chứng của vụ án: 01 gói nylon màu trắng có kích thước 06 x 10 cm, một đầu có khóa nhựa, bên trong có:

+ 01 (một) túi nylon màu trắng một đầu có khóa đóng, bên trong nylon có chứa chất rắn, màu trắng có kích thước khoảng 04 x 07 cm.

+ 01 (một) túi nylon màu trắng một đầu có khóa đóng, bên trong nylon có chứa chất rắn, màu trắng có kích thước khoảng 04 x 05 cm.

+ 01 (một) đoạn ống nhựa được hàn kín xung quanh, bên trong có chứa chất rắn, màu trắng có kích thước khoảng 01 x 02 cm.

(Được niêm phong và ký hiệu M khi giám định).

Ngoài ra, tổ tuần tra còn thu giữ trên tay phải của bị cáo 01 điện thoại di động hiệu OPPO F9, bên trong chứa sim số 0947231248 khi bắt quả tang và 1.200.000 đồng khi khám xét khẩn cấp chỗ ở của bị cáo.

Tại phiên tòa bị cáo Phan Thị Ngọc H đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Tại kết luận giám định số 746/KLGĐ-PC09 ngày 14/6/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự (PC09) - Công an tỉnh Bình Thuận kết luận: Mẫu M gửi giám định có khối lượng 9,5011 gam, là Methamphetamine.

Qúa trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận nêu trên.

Bản cáo trạng số 165/CT – VKSPT- HS ngày 13 tháng 10 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố P, tỉnh Bình Thuận đã truy tố bị cáo Phan Thị Ngọc H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự;

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của bị cáo Phan Thị Ngọc H đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố P giữ quyền công tố luận tội và tranh luận:

Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố: Bị cáo Phan Thị Ngọc H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Đề nghị áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 50; Điều 38 của Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Phan Thị Ngọc H với mức hình phạt từ 05 năm 06 tháng tù đến 06 năm 06 tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử áp Điều 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS, đề nghị HĐXX Tòa án nhân dân thanh phố P tuyên:

+ Tịch thu và tiêu hủy: Gói nylon, đoạn ống nhựa đã cắt lấy mẫu và 9,3144 gam mẫu Methamphetamine còn lại sau giám định, được niêm phong trong phong bì số 746, có chữ ký của giám định viên Đoàn Thảo Nguyên và dấu hình tròn màu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận; 01 sim điện thoại số 0947231248.

+ Tịch thu và sung vào ngân sách nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu OPPO F9, do đây là tài sản mà bị cáo H đã sử dụng vào việc gọi mua ma túy ngày 09/6/2021.

Đối với tiền Việt Nam: 1.200.000 đồng, do tài sản này không liên quan đến vụ án nên Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố P đã trả lại cho bị cáo H là đúng quy định pháp luật nên không xem xét.

Đối với đối tượng tên “Th” đã bán ma túy cho bị cáo H không xác định được nhân thân, lai lịch nên không có căn cứ để xử lý.

Lời nói sau cùng của bị cáo Phan Thị Ngọc H : Bị cáo biết hành vi tàng trữ ma túy là vi phạm pháp luật mong Hội đồng xét xử khoan hồng giảm nhẹ hình phạt, bị cáo hứa sẽ học tập rèn luyện để trở thành người có ích cho xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố P, của Điều tra viên, của Viện kiểm sát nhân dân thành phố P, của Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về chứng cứ buộc tội bị cáo: Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo thừa nhận đã thực hiện hành vi phạm tội. Xét lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra Công an thành phố P và phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở để kết luận:

Khoảng 18 giờ 00 ngày 09/6/2021, tại khu phố 7, phường M, thành phố P, tỉnh Bình Thuận, bị cáo Phan Thị Ngọc H có hành vi tàng trữ trái phép 9,5011 gam Methamphetamine , nhằm mục đích sử dụng thì bị tổ tuần tra Đồn biên phòng M - Bộ đội biên phòng tỉnh Bình Thuận và Công an phường M, thành phố P kiểm tra hành chính và bắt quả tang.

Xét thấy Phan Thị Ngọc H là người có năng lực trách nhiệm hình sự, bị cáo nhận thức đầy đủ về hành vi của mình đối với xã hội. Bị cáo nhận thức được những tác hại nguy hiểm của ma túy đối với sức khỏe con người, đối với cộng đồng xã hội và việc tàng trữ chất ma túy là trái pháp luật. Nhà nước nghiêm cấm và xử lý nghiêm khắc đối với mọi hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy nhưng bị cáo đã xem thường pháp luật, đã tàng trữ ma túy bất chấp hậu quả. Do đó đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Phan Thị Ngọc H đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 của Bộ luật hình sự như nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố P đã truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo cho thấy: Hành vi của bị cáo không những xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền của nhà nước về chất ma túy mà còn gây mất an ninh trật tự tại địa phương, thể hiện tính nguy hiểm cao cho xã hội. Vì vậy cần xử phạt bị cáo một mức án nghiêm khắc, tương xứng với tính chất và mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để giáo dục bị cáo thành người có ích cho xã hội và cũng là để giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.

Tuy nhiên khi quyết định hình phạt, xét thấy tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự sẽ được Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, tạo điều kiện cho bị cáo an tâm rèn luyện tu dưỡng sớm trở thành người có ích cho xã hội.

[4] Về xử lý vật chứng:

Đối với 01 gói nylon, đoạn ống nhựa đã cắt lấy mẫu và 9,3144 gam mẫu vật còn lại sau giám định, được niêm phong trong phong bì số 746, có chữ ký của giám định viên Đoàn Thảo Nguyên và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận là vật thuộc loại nhà nước cấm lưu hành. Do vậy, cần áp dụng quy định tại điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự quyết định tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 chiếc điện thoại di động hiệu Oppo F9, chứa 01 sim số thu giữ của bị cáo H , bị cáo khai sử dụng điện thoại này để liên lạc mua ma túy của đối tượng tên Th về sử dụng. Do vậy, cần áp dụng quy định tại điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự quyết định tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

Đối với số tiền 1.200.000 đồng, thu giữ của bị cáo, không liên quan đến tội phạm, Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an thành phố P đã trả lại cho bị cáo nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Đối với nguồn gốc ma túy tàng trữ, bị cáo khai mua của đối tượng tên Th. Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố P chưa xác định được nhân thân nên không có căn cứ để xử lý là có căn cứ nên Hội đồng xét xử không xem xét.

 [6] Về án phí : Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Phan Thị Ngọc H phạm tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Bị cáo Phan Thị Ngọc H 06 (Sáu) năm tù, ( bị cáo được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 09/6/2021 đến ngày 12/6/2021). Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Về xử lý vật chứng:

Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự, tuyên:

Tịch thu tiêu hủy 01 gói nylon, đoạn ống nhựa đã cắt lấy mẫu và 9,3144 gam mẫu vật còn lại sau giám định, được niêm phong trong phong bì số 746, có chữ ký của giám định viên Đoàn Thảo Nguyên và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận;

Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 chiếc điện thoại di động hiệu Oppo F9, chứa 01 sim số.

Các vật chứng ghi trên hiện do Chi cục thi hành án dân sự thành phố P quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 10 ngày 19/10/2021.

Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án và danh mục án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết, tuyên buộc bị cáo Phan Thị Ngọc H phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử sơ thẩm công khai, bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án ( ngày 01/12/2021).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

155
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 178/2021/HS-ST

Số hiệu:178/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Thiết - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 01/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về