Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 177/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NAM ĐỊNH, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 177/2021/HS-ST NGÀY 20/07/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 20 tháng 7 năm 2021 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố NĐ, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 172/2021/TLST-HS ngày 01 tháng 7 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 172/2021/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 7 năm 2021 đối với:

Bị cáo Trần Ngọc P, sinh năm 1992; tên gọi khác: Không; nơi sinh: Nam Định; ĐKHKTT và nơi cư trú tại: Số nhà 8/182 đường TTT, phường TN, thành phố NĐ, tỉnh Nam Định; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không nghề nghiệp: Tự do; trình độ văn hóa: Lớp 9/12; giới tính: Nam; con ông: Trần Ngọc B (đã chết) và bà Hoàng Thị D, sinh năm 1957; gia đình có 05 chị em, bị cáo là con thứ 5; chưa có vợ con; tiền án: Ngày 12-3-2019 Tòa án nhân dân thành phố NĐ xử phạt 21 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, ra trại ngày 30-6- 2020; tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 06-4-2021 sau đó chuyển tạm giam đến nay tại nhà tạm giữ Công an thành phố NĐ; (bị cáo có mặt tại phiên tòa).

- Người làm chứng:

1. Ông Nguyễn Đức H, sinh năm 1957, địa chỉ: Số nhà 47/314 đường TC, phường VX, thành phố NĐ (Vắng mặt)

2. Ông Nguyễn Huy H, sinh năm 1964, địa chỉ: Số nhà 42/314 đường TC, phường VX, thành phố NĐ (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ 45 phút ngày 05-4-2021, tổ công tác Công an phường VX, thành phố NĐ làm nhiệm vụ tại khu vực đầu ngõ 75, đường TTT, phường LV, thành phố NĐ phát hiện Trần Ngọc P đang đi xe máy điện BKS: 18MĐ8-014.22 có biểu hiện nghi vấn nên đã yêu cầu dừng xe kiểm tra. Quá trình kiểm tra Trần Ngọc P đã tự giác giao nộp từ tay trái của mình 01 gói nhỏ ni lông màu đen. Tổ công tác thu giữ, mời người làm chứng mở kiểm tra gói ni lông màu đen, bên trong là gói giấy bạc màu trắng chứa chất bột dạng cục màu trắng (P khai là Heroin của mình vừa mua để sử dụng). Tổ công tác tiến hành niêm phong vật chứng, đưa Trần Ngọc P và mời người làm chứng về trụ sở Công an phường VX, thành phố NĐ lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang theo quy định của pháp luật. Ngoài ra còn thu giữ của Trần Ngọc P 01 xe máy điện BKS: 18MĐ8-014.22.

Bản kết luận giám định số 451/GĐKTHS ngày 09-4-2021 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Nam Định đã kết luận: Mẫu bột dạng cục màu trắng trong 01 gói giấy bạc màu trắng, bên ngoài bọc ni lông màu đen thu giữ của Trần Ngọc P được niêm phong gửi giám định là ma túy, loại ma túy: Heroine, khối lượng mẫu: 0,080 gam.

Tại Cơ quan điều tra, Trần Ngọc P khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng và khai nhận nguồn gốc số ma túy trên như sau: Khoảng 14 giờ 30 phút ngày 05-4-2021, Trần Ngọc P một mình đi xe máy điện BKS: 18MĐ8-014 từ nhà đến đầu ngách 12/75 đường TTT, phường LV, thành phố NĐ gặp và mua của một người đàn ông (không rõ lai lịch, địa chỉ) 01 gói Heroin với giá 100.000 đồng, Trần Ngọc P cầm trên tay trái và điều khiển xe máy điện đi đến đầu ngõ 75 đường TTT, phường LV, thành phố NĐ thì bị phát hiện bắt giữ như đã nêu trên.

Đối với đối tượng đã bán gói ma tuý cho Trần Ngọc P và chiếc xe máy điện BKS: 18MĐ8-014 đã cũ, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố NĐ xác định chưa đủ căn cứ kết luận nên tách ra để tiếp tục điều tra xử lý sau.

Tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai nhận, ăn năn hối cải với hành vi phạm tội của mình.

Bản cáo trạng số 175/CT-VKSTPNĐ ngày 29 tháng 6 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố NĐ, tỉnh Nam Định truy tố bị cáo Trần Ngọc P về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm a khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự sửa đổi bổ sung năm 2017 (Sau đây được viết tắt là BLHS).

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Trần Ngọc P về tội danh, điều luật áp dụng như bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Trần Ngọc P phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS xử phạt bị cáo Trần Ngọc P từ 18 đến 21 tháng tù. Về hình phạt bổ sung: Đề nghị Hội đồng xét xử không ap dung hinh phat bô sung la phat tiền đối vơi bi cao. Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 47 BLHS; Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự: Tịch thu tiêu hủy số ma túy đã thu giữ (Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản).

Bị cáo nói lời sau cùng: Xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố NĐ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố NĐ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Trần Ngọc P không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Khoảng 14 giờ 45 phút ngày 05-4-2021, Trần Ngọc P đã có hành vi tàng trữ trái phép ma túy mục đích để sử dụng thì bị phát hiện, bắt giữ tại khu vực đầu ngõ 75, đường TTT, thành phố NĐ. Hành vi của bị cáo còn được chứng minh bằng lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, lời khai của người làm chứng, biên bản về việc bắt người phạm tội quả tang, biên bản thu giữ và niêm phong vật chứng, bản kết luận giám định xác định khối lượng Heroine bị cáo tàng trữ mục đích để sử dụng là 0,080 gam nhưng bị cáo có 01 tiền án về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" chưa được xóa án tích. Vì vậy bị cáo phải chịu tình tiết định khung về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt quy định tại điểm a khoản 1 Điều 249 BLHS như kết luận của Kiểm sát viên là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo:

[3.1] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Trần Ngọc P không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[3.2] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình vì vậy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS.

[3.3] Về hình phạt chính: Trên cơ sở xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, đối chiếu với các quy định của Bộ luật Hình sự, Hội đồng xét xử xét thấy: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma tuý của Nhà nước, gây mất trật tự an toàn xã hội vì vậy cần áp dụng loại hình phạt tù có thời hạn trong khung đã truy tố và cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm răn đe, giáo dục bị cáo và góp phần phòng ngừa tội phạm nói chung trên địa bàn thành phố. Xét bị cáo có nhân thân xấu nên ấn định mức hình phạt như đề nghị của Kiểm sát viên là có căn cứ.

[3.4] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo tàng trữ trái phép chất ma túy mục đích để sử dụng; bị cáo không có nghề nghiệp ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[4] Về xử lý vật chứng: Số ma túy bị thu giữ trong vụ án của bị cáo Trần Ngọc P được niêm phong trong phong bì niêm phong số 451/GĐKTHS là vật cấm tàng trữ nên tịch thu tiêu hủy theo quy định của pháp luật.

[5] Án phí Hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Trần Ngọc P phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự:

- Xử phạt bị cáo Trần Ngọc P 21 (Hai mươi mốt) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 06-4-2021.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong số 451/GĐKTHS của Phòng kỹ thuật Hình sự công an tỉnh Nam Định (Theo biên bản giao nhận vật chứng và tài sản ngày 30-6-2021).

3. Về án phí Hình sự sơ thẩm: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội.

Bị cáo Trần Ngọc P phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).

4. Bị cáo Trần Ngọc P được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

5. Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

151
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 177/2021/HS-ST

Số hiệu:177/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về