TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CẨM PHẢ, TỈNH QUẢNG NINH
BẢN ÁN 177/2021/HS-ST NGÀY 02/12/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ
Trong ngày 02/12/2021 tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh, đưa ra xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 179/2021/TLST-HS ngày 15/11/2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 172/2021/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 11 năm 2021 đối với bị cáo:
Họ và tên: Dương Đức T1; sinh ngày 16 tháng 02 năm 1977 tại Cẩm Phả, Quảng Ninh; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Tổ 103, khu 10A, phường C, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: Lớp 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Dương Đức T2 (đã chết) và bà Nguyễn Thị L; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Năm 2010 cai nghiện bắt buộc tại trung tâm giáo dục lao động xã hội Vũ Oai - Hoành Bồ Quảng Ninh. Năm 2012 hoàn thành cai nghiện về địa phương; bị bắt, tạm giam ngày 12/8/2021; Có mặt.
* Người làm chứng: Ông Nguyễn Văn T3 và ông Trần Xuân S – Đều vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Hồi 12 giờ 45 phút ngày 12/8/2021, tại tổ 8, khu An Sơn, phường Cẩm Sơn, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh, Dương Đức T1 có hành vi tàng trữ trái phép 0,195 gam ma túy, loại Heroine, mục đích để sử dụng thì bị Công an thành phố Cẩm Phả bắt quả tang.
- Tại bản kết luận giám định số số 1526/KLGĐ ngày 16/8/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh kết luận: Gói giấy chứa chất bột màu trắng dạng cục thu của Dương Đức T1 là ma túy, loại Heroine, khối lượng 0,195 gam, hoàn lại: 0,14 gam.
Tại phiên tòa Dương Đức T1 khai: T1 sử dụng ma túy Heroine từ năm 2004. Khoảng 10 giờ 45 phút ngày 12/8/2021 có một người bạn mới quen (không rõ lai lịch, địa chỉ) gọi vào số điện thoại 0375.659.989 của T1 từ số điện thoại 0799.229.934, hỏi T1 có mua ma túy Heroine để sử dụng thì bán cho T1. Đến khoảng 11 giờ 15 phút cùng ngày, T1 gọi lại cho người này hỏi mua 200.000 đồng ma túy thì người này điều khiển xe mô tô (không rõ biển số) chở T1 đến khu vực tổ 8, khu An Sơn, phường Cẩm Sơn, thành phố Cẩm Phả bán cho T1 01 gói ma túy Heroine giá 200.000 đồng. Khi đang đi tìm chỗ sử dụng thì T1 bị Công an kiểm tra bắt quả tang.
Những người làm chứng ông Nguyễn Văn T3, ông Trần Xuân S vắng mặt tại phiên tòa nhưng có lời khai tại cơ quan điều tra thể hiện nội dung: Được chứng kiến cơ quan công an bắt giữ Dương Đức T1 và thu giữ 01 gói ma túy, chứng minh nhân dân và điện thoại của Dương Đức T1.
Tại bản Cáo trạng số: 175/CT-VKSCP ngày 12/11/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm Phả truy tố Dương Đức T1 tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm Phả trình bày lời luận tội giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị hội đồng xét xử: Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Dương Đức T1 mức án từ 12 tháng đến 15 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt 12/8/2021; Về vật chứng: Áp dụng: Điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu, tiêu hủy số ma túy hoàn lại sau giám định; tịch thu, nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại; trả lại chứng minh nhân dân cho bị cáo. Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Cẩm Phả, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm Phả, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục được qui định trong Bộ luật Tố tụng hình sự; quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên toà bị cáo khai nhận hành vi cất giữ 0,195 gam Heroine với mục đích sử dụng đúng như bản cáo trạng đã truy tố. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra đồng thời phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với nhật ký cuộc gọi trong điện thoại của Dương Đức T1 tại biên bản kiểm tra điện thoại, phù hợp với lời khai của những người làm chứng về thời gian, địa điểm và vật chứng mà cơ quan công an thu giữ khi bắt bị cáo, phù hợp với vật chứng và kết luận giám định số 1526/KLGĐ ngày 16/8/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh, cũng như các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ đã được thẩm tra tại phiên tòa có đủ cơ sở kết luận: Hồi 12 giờ 45 phút ngày 12/8/2021, tại tổ 8, khu An Sơn, phường Cẩm Sơn, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh, Dương Đức T1 có hành vi tàng trữ trái phép 0,195 gam ma túy, loại Heroine, mục đích để sử dụng. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự nên có cơ sở chấp nhận lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm Phả tại phiên tòa.
[3] Bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy mà còn tiếp tay cho các đối tượng mua bán ma tuý khác gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Mặc dù hiểu rõ tác hại của ma túy, song do ý thức chấp hành pháp luật kém bị cáo đã cất giữ ma túy trong người với mục đích sử dụng, do đó cần có một hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo.
[4] Xét tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự và nhân thân bị cáo: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo nên xem xét áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Bị cáo có nhân thân xấu, đã bị đi cai nghiện bắt buộc.
[5] Hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự, ngoài hình phạt chính bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung song xét bị cáo là đối tượng nghiện, không có nghề nghiệp, không có thu nhập ổn định nên không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung.
[6] Về vật chứng: Cơ quan điều tra thu giữ trong vụ án: 0,195 gam Heroine, sau giám định hoàn lại 0,14 gam, là vật Nhà nước cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy; chiếc điện thoại di động bị cáo dùng vào việc liên lạc mua ma túy nên cần tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước; giấy chứng minh nhân dân là giấy tờ tùy thân của bị cáo cần được trả lại cho bị cáo.
[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.
[8] Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định pháp luật.
Đối với người bán ma túy cho T1, do không có thông tin về lai lịch, địa chỉ nên không có cở sở điều tra làm rõ. Cơ quan điều tra đã yêu cầu Tập đoàn viễn thông Mobifone cung cấp thông tin chủ thuê bao số điện thoại 0799.229.934, nhưng chưa có kết quả, nên tiếp tục làm rõ xử lý sau.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Tuyên bố: Dương Đức T1 phạm tội: "Tàng trữ trái phép chất ma tuý".
Xử phạt: Dương Đức T1 13 (mười ba) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt ngày 12/8/2021.
Về vật chứng: Căn cứ: Điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:
- Tịch thu, tiêu huỷ 01 (một) phong bì còn nguyên dấu niêm phong số 1526/KLGĐ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh; tịch thu, nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Xphone, màu đen kèm theo 01 sim; trả lại bị cáo 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Dương Đức T1;
tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng số 51/BB-THA ngày 24/11/2021 tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Cẩm Phả.
Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 177/2021/HS-ST
Số hiệu: | 177/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Cẩm Phả - Quảng Ninh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 02/12/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về