Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 17/2024/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN B, TỈNH LÀO CAI

BẢN ÁN 17/2024/HS-ST NGÀY 23/04/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 04 năm 2024 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh C (Đường Điện Biên, thị trấn Bát Xát, huyện B, tỉnh C).

Xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 13/2024/TLST-HS ngày 15 tháng 03 năm 2024 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 10/HSST-QĐ ngày 19 tháng 03 năm 2024 và Q định hoãn phiên tòa số 01/2024/QĐXXST – HS ngày 29/03/2024 đối với bị cáo:

Giàng A, tên gọi khác: Không; sinh ngày 22 tháng 12 năm 1981 tại huyện B, tỉnh C; Giới tính: nam. ĐKNKTT và nơi ở: thôn Dền Thàng, xã Trịnh Tường, huyện B, tỉnh C; Nghề nghiệp: tự do; Trình độ văn hóa: Không biết chữ; Dân tộc: Mông; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Giàng A Vàng và bà Hầu Thị Ch1 (tên gọi khác Hầu Thị Ch). Bị cáo có vợ là Thào Thị V (tên gọi khác là Thào Thị Vng), Bị cáo có 04 người con, lớn nhất sinh năm 2001 nhỏ sinh năm 2015. Tiền án: Có 01 tại bản án số 21/2021/HS-ST ngày 17/06/2021 của Tòa án nhân dân huyện B, xử phạt Giàng A 01 (một) năm 09 (chín) tháng tù về tội “ tàng trữ trái phép chất ma túy” ngày 30/06/2022 bị cáo chấp hành xong, đến nay chưa được xóa án tích; tiền sự: Không; Nhân thân: xấu. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 10/01/2024, tạm giam từ ngày 16/01/2024 hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện B, tỉnh C “Có mặt tại phiên tòa”.

- Người bào chữa cho bị cáo Giàng A là Bà Nguyễn Thị Hương Th – sinh năm 1983. Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh C (Có mặt tại phiên tòa).

- Người chứng kiến: Anh Trần Ngọc Q – sinh năm 1979 Địa chỉ: thôn Phố Mới 1, xã Trịnh Tường, huyện B, tỉnh C (vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 08 giờ ngày 10/01/2024, tổ công tác Công an huyện B phối hợp với Công an xã Trịnh Tường đang làm nhiệm vụ tại thôn Bản Trung, xã Trịnh Tường, huyện B, tỉnh C thì phát hiện Giàng A có biểu hiện phạm tội về ma tuý nên yêu cầu kiểm tra. Giàng A tự giác lấy từ trong túi quần bên trái đang mặc trên người ra 01 (một) gói nilon màu trắng, bên trong có chứa chất bột khô, màu trắng, vón cục giao nộp cho tổ công tác và khai nhận là ma tuý heroine mua về để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ toàn bộ tang vật trước trước sự chứng kiến của anh Trần Ngọc Q.

Về nguồn gốc ma túy, Giàng A khai nhận: Khoảng 07 giờ 30 phút ngày 10/01/2024, Giàng A đang ở nhà thì nảy sinh ý định đi mua ma tuý về sử dụng cho bản thân. Giàng A đi bộ một mình từ nhà đến đường liên thôn Nà Lặc, xã Trịnh Tường, huyện B để tìm mua ma tuý thì gặp một người đàn ông dân tộc Mông khoảng 60 tuổi không quen biết đang đứng ở ven đường. Qua trao đổi, Giàng A mua được của người đàn ông này 01 (một) gói ma tuý heroine được gói bằng nilon màu trắng với giá 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng. Giàng A cất gói ma tuý vừa mua được vào trong túi quần bên trái đang mặc rồi đi bộ một đoạn thì rẽ vào đồi cây cách đường khoảng 30 mét, mở gói ma tuý ra, dùng móng tay cấu một ít ma tuý vừa mua được ra để sử dụng bằng hình thức hít. Khoảng 08 giờ cùng ngày, Giàng A đi đến thôn Bản Trung, xã Trịnh Tường, huyện B thì bị phát hiện bắt quả tang và thu giữ toàn bộ tang vật Tại biên bản mở niêm phong, xác định khối lượng, trích mẫu, tái niêm phong và giao nhận đối tượng giám định ngày 10/01/2024 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B và Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh C xác định: 01 (Một) gói nilon màu trắng, bên trong có chứa chất bột khô màu trắng, vón cục. Có khối lượng là 0,304 (không phẩy ba trăm linh bốn) gam; trích 0,090 (không phẩy không trăm chín mươi) gam để giám định, hoàn lại Cơ quan trưng cầu 0,214 (không phẩy hai trăm mười bốn) gam.

Tại bản kết luận giám định số 51/KL- GĐMT ngày 15/01/2024 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh C đã kết luận: 0,304 (không phẩy ba trăm linh bốn) gam chất bột khô, màu trắng, vón cục thu giữ của Giàng A ngày 10/01/2024 do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B gửi đến giám định là loại chất ma túy Heroine.

Cáo trạng số 11/CT- VKSBX ngày 14/03/2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện B, tỉnh C truy tố bị cáo Giàng A về tội " Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Đại diệnViện kiểm sát nhân dân huyện B đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Tuyên bố bị cáo Giàng A phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt bị cáo Giàng A với mức án từ 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng đến 01 (Một) năm 09 (Chn) tháng tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a,c khoản 1 điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a,c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy 0,214 (không phẩy hai trăm mười bốn) gam ma tuý Heroine còn lại sau trích mẫu giám định cùng 01 (một) mảnh nilon màu trắng và bì niêm phong ban đầu gửi giám định.

Tuyên án phí: Bị cáo thuộc hộ nghèo có đơn xin miễn án phí, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị Q 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội để miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Giàng A.

Tuyên quyền kháng cáo cho bị cáo theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa người bào chữa trình bày lời bào chữa đối với bị cáo Giàng A. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất vì bị cáo là người dân tộc thiểu số hạn chế về nhận thức. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Tuyên bố bị cáo Giàng A phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, xử phạt bị cáo với mức án 01 (Một) năm đến 01 (Một) năm 03 (ba) tháng tù.

Đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo Giàng A theo khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Về án phí hình sự: Bị cáo Giàng A thuộc hộ nghèo theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị Q 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện B, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tống tụng hình sự. Quá trình điều tra bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của pháp luật.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà phù hợp lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai người chứng kiến, tang vật thu giữ và kết luận giám định. Khoảng 07 giờ 30 phút ngày 10/01/2024, Giàng A đang ở nhà thì nảy sinh ý định đi mua ma tuý về sử dụng cho bản thân. Giàng A đi bộ đến đường liên thôn Nà Lặc, xã Trịnh Tường, huyện B để tìm mua ma tuý thì gặp một người đàn ông dân tộc Mông khoảng 60 tuổi không quen biết. Qua trao đổi, Giàng A mua được của người đàn ông này 01 (một) gói ma tuý heroine được gói bằng nilon màu trắng với giá 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng. Sau khi mua được ma túy Giàng A đi bộ một đoạn thì rẽ vào đồi cây cách đường khoảng 30 mét, mở gói ma tuý ra, dùng móng tay cấu một ít ma tuý vừa mua được ra để sử dụng bằng hình thức hít. Khoảng 08 giờ cùng ngày, Giàng A đi đến thôn Bản Trung, xã Trịnh Tường, huyện B thì bị phát hiện bắt quả tang và thu giữ toàn bộ tang vật. Như vậy có đủ cơ sở để kết luận bị cáo Giàng A phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma túy của của Nhà nước, gây ảnh hưởng đến trật tự trị an tại địa phương, bị cáo biết việc tàng trữ trái phép chất ma tuý là vi phạm pháp luật nhưng ngày 10/01/2024 bị cáo đã cố ý tàng trữ 0,304 (Không phẩy ba trăm linh bốn) gam Heroine mục đích để sử dụng cho bản thân.Vì vậy,cần phải xét xử một mức án nghiêm khắc tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cần áp dụng hình phạt tù theo quy định tại Điều 38 của Bộ luật Hình sự, mới có tác dụng giáo dục, cải tạo và phòng ngừa chung.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Tình tiết tăng nặng: Bị cáo có 01 tiền án chưa được xoá án tích lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp tái phạm đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo là phù hợp với quy định của pháp luật.

[4] Đối với người đàn ông đã bán ma tuý cho Giàng A ngày 10/01/2024, Giàng A không biết họ tên, tuổi, địa chỉ, ngoài lời khai của bị cáo không có tài liệu khác để chứng minh nên Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện B không điều tra làm rõ được, khi nào xác minh làm rõ sẽ xử lý sau.

Bị cáo khai sau khi mua được ma túy bị cáo đã dùng móng tay cấu một ít ma túy ra để sử dụng. Do chỉ có duy nhất lời khai của bị cáo ngoài ra không có tài liệu, chứng cứ nào để chứng minh nên không đủ căn cứ để kết luận, xử lý đối với Giàng A về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy là phù hợp.

Đối với chiếc bật lửa, mảnh giấy bạc bị cáo khai dùng để hít ma túy, sau khi sử dụng xong bị cáo vứt tại đồi cây ở thôn Bản Trung, xã Trịnh Tường, huyện B, Cơ quan điều tra đã tổ chức truy tìm nhưng không phát hiện thu giữ được, vì vậy không đề cập xử lý là phù hợp.

[5] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có tài sản gì, bị cáo thuộc hộ nghèo nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự là phù hợp.

[6] Về vật chứng vụ án: Sau giám định số vật chứng còn lại 0,214 (Không phẩy hai trăm mười bốn) gam Heroine cùng 01 (một) mảnh nilon màu trắng và bì niêm phong ban đầu gửi giám định. Xét đây là vật nhà nước cấm lưu hành và vật không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy là phù hợp với quy định của pháp luật.

[7] Bị cáo Giàng A có giấy chứng nhận hộ nghèo của Ủy ban nhân dân xã Trịnh Tường, huyện B, tỉnh C, và có đơn xin miễn án phí hình sự sơ thẩm. Vì vậy bị cáo được miễn án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội là phù hợp.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Giàng A 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ bị cáo 10/01/2024.

Về vật chứng: Áp dụng điểm a,c khoản 1 điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a,c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu huỷ 0,214 (Không phẩy hai trăm mười bốn) gam Heroine còn lại sau giám định cùng 01 (Một) mảnh nilon màu trắng và bì niêm phong ban đầu gửi giám định.Trên một mặt tại mép dán của bì niêm phong có chữ ký ghi rõ họ tên của Bùi Thị Hằng, Nguyễn Văn Phi, Nông Văn Nghiệp, 01 (một) điểm chỉ ngón trỏ phải của Giàng A và 02 (hai) hình dấu tthu nhỏ màu đỏ của Phòng kỹ thuật Hình sự - Công an tỉnh C và được dán phủ lớp băng dính trong suốt. Mặt còn lại của bì niêm phong có ghi dòng chữ: “Vật chứng còn lại sau trích mẫu giám định thu giữ khi bắt quả tang của Giàng A sinh năm 1981 có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy tại thôn Bản Trung, xã Trịnh Tường,huyện B, tỉnh C ngày 10/01/2024”.

( Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 15/03/2024 giữa Công an huyện B và Chi cục thi hành án huyện B).

Về án phí: Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội bị cáo Giàng A được miễn tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

13
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 17/2024/HS-ST

Số hiệu:17/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bắc Hà - Lào Cai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/04/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về