Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 17/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĂN LÃNG, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 17/2023/HS-ST NGÀY 29/03/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 3 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 14/2023/TLST-HS ngày 10 tháng 3 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 13/2023/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 3 năm 2023, đối với bị cáo:

Đặng Xuân T1 (tên gọi khác: Không có); sinh ngày 06 tháng 11 năm 1974 tại tỉnh Lạng Sơn; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Phố M1, phường T2, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn; chỗ ở: Khu *, thị trấn N1, huyện V, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đặng Xuân M2 (đã chết) và bà Vũ Thị H1, sinh năm 1939; vợ 01 là Đặng Thu P, đã ly hôn năm 2015, vợ 02 là Đoàn Thị N2; có 02 con, con lớn sinh năm 2000, con nhỏ sinh năm 2009; tiền án: tại Bản án số 12/2020/HS-ST ngày 15/9/2020 của Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Sơn La xử phạt 30 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, đã chấp hành xong ngày 08/10/2022; tiền sự: Không có; nhân thân: tại Bản án số 27/HS-ST ngày 21/4/1999 của Tòa án nhân dân thành phố L, tỉnh Lạng Sơn xử phạt 09 tháng tù về tội Cưỡng đoạt tài sản của công dân, đã chấp hành xong ngày 20/8/1999, đã được xóa án tích; tại Quyết định số 1163/QĐ-UBND ngày 11/6/2012 Ủy ban nhân dân thành phố L, tỉnh Lạng Sơn áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh bắt buộc với thời hạn 24 tháng do nghiện ma túy, đã chấp hành xong ngày 29/5/2014, đã được xóa tiền sự; tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 1637/QĐ-XPVPHC ngày 03/8/2020 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện B, tỉnh Sơn La xử phạt 10.000.000 đồng về hành vi tàng trữ trái phép vũ khí thể thao, đã chấp hành ngày 17/8/2020, đã được xóa tiền sự; bị bắt, tạm giữ từ ngày 20/12/2022, tạm giam từ ngày 23/12/2022 đến nay; có mặt.

- Người chứng kiến: Ông Nguyễn Mạnh H2; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Đặng Xuân T1 nghiện chất ma túy từ năm 2012 đến nay. Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 20/12/2022, Đặng Xuân T1 một mình đi bộ từ nhà tại Khu * thị trấn N1, huyện V, tỉnh Lạng Sơn ra đường quốc lộ đón xe khách đến khu vực đằng sau chùa T3, huyện V, tỉnh Lạng Sơn gặp và hỏi mua ma túy với một người đàn ông khoảng 35 tuổi (không biết họ tên, địa chỉ); sau khi trao đổi Đặng Xuân T1 đã mua với người này 300.000 (ba trăm nghìn) đồng được 01 (một) túi nilon màu trắng chứa ma túy. Đặng Xuân T1 nhận lấy ma túy, cầm trong lòng bàn tay, đón xe khách đi về nhà; khi đi đến ngã ba rẽ vào Trường phổ thông dân tộc nội trú huyện V, tỉnh Lạng Sơn, thuộc Khu * thị trấn N1 thì bị tổ công tác của Công an huyện Văn Lãng kiểm tra, phát hiện bắt quả tang và lập biên bản theo quy định.

Tổ công tác đã thu giữ của Đặng Xuân T1: 01 (một) túi nilon màu trắng, chứa chất bột màu trắng nghi là chất ma túy Heroine, được niêm phong trong một phong bì thư có chữ viết tay “QT Đặng Xuân T1”.

Tại Kết luận giám định số 99/KL-KTHS ngày 22/12/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận: “Chất bột màu trắng gửi giám định đều là chất ma túy Heroin, có tổng khối lượng 0,281 gam (đã trừ bì)”. (Tại Công văn số 87/PC09 ngày 17/3/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn khẳng định: “… chất ma túy được gọi là Heroine hoặc Heroin đều là tên gọi của cùng một chất ma túy có tên khoa học là Diacetylmorphine”).

Tại Cơ quan điều tra, ông Nguyễn Mạnh H2 khai được chứng kiến việc bắt người phạm tội quả tang và niêm phong tang vật theo đúng quy định của pháp luật.

Tại Cáo trạng số 17/CT-VKS ngày 10/3/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Đặng Xuân T1 về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa: Bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của bản thân như nội dung Cáo trạng đã truy tố; bị cáo thừa nhận bản thân tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng là vi phạm pháp luật.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Đặng Xuân T1 phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 38, Điều 50, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Đặng Xuân T1 từ 18 tháng đến 24 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự và điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự; tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định, toàn bộ các vỏ bao gói.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận. Tại lời nói sau cùng, bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm được trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của những người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo: Khoảng 13 giờ 40 phút ngày 20/12/2022, tổ công tác Công an huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn phát hiện bắt quả tang Đặng Xuân T1 đang có hành vi tàng trữ trái phép 0,281 gam chất ma túy Heroine với mục đích để sử dụng. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người chứng kiến, phù hợp với vật chứng đã thu giữ được, Kết luận giám định của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi bị cáo thực hiện là vi phạm pháp luật, nhưng vẫn cố ý thực hiện. Vì vậy có đủ cơ sở để kết luận bị cáo Đặng Xuân T1 phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[3] Xét tính chất, mức độ của hành vi phạm tội thấy rằng: Hành vi mà bị cáo thực hiện là nghiêm trọng, gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ quản lý các chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự an toàn xã hội, là nguyên nhân gián tiếp gây ra tệ nạn xã hội và các tội phạm khác. Bản thân bị cáo đã học đến lớp 12/12; nhận thức rõ tác hại của ma túy đối với bản thân và xã hội, nhưng chỉ vì để có ma túy thỏa mãn nhu cầu của bản thân, bị cáo đã bất chấp pháp luật và dư luận xã hội, để thực hiện hành vi phạm tội.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của bản thân; bị cáo có bố là ông Đặng Xuân M2 được tặng huân chương kháng chiến hạng nhì, huy chương chiến sỹ vẻ vang, huy chương vì sự nghiệp tư pháp; có mẹ là bà Vũ Thị H1 được tặng huân chương kháng chiến hạng nhất nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo đã bị kết án về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, chưa được xóa án tích; lần phạm tội này là tái phạm.

[6] Về nhân thân: Bị cáo đã bị xử phạt vi phạm hành chính, đã bị xử lý hành chính, đã bị kết án, xét thấy có nhân thân không tốt.

[7] Trên cơ sở đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết xử phạt cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để cải tạo, giáo dục và phòng ngừa chung.

[8] Về hình phạt bổ sung: Theo biên bản xác minh ngày 23/02/2023 của Cơ quan điều tra và qua xét hỏi công khai tại phiên tòa sơ thẩm thấy rằng: Bị cáo không có thu nhập ổn định; bị cáo không có tài sản riêng có giá trị, bản thân nghiện ma túy, vì vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[9] Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy khối lượng ma túy còn lại sau giám định được niêm phong trong một phong bì và toàn bộ các vỏ bao gói; là vật Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành và vật không sử dụng được.

[10] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn về tội danh, điều luật áp dụng, hình phạt, xử lý vật chứng phù hợp với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[11] Đối với người đàn ông bán ma túy cho bị cáo, do bị cáo không biết họ tên, địa chỉ, cơ quan điều tra không làm rõ được nên không có căn cứ xử lý trong vụ án này.

[12] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo là người bị kết án phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm để nộp vào ngân sách Nhà nước. Bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 38, điểm c khoản 1 Điều 47, Điều 50, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Căn cứ vào điểm a, c khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 136, Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Đặng Xuân T1 phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Đặng Xuân T1 01 (một) năm 09 (chín) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ là ngày 20 tháng 12 năm 2022.

3. Về xử lý vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy: Khối lượng ma túy còn lại sau giám định (0,262 gam chất ma túy Heroine) được để trong 01 (một) phong bì thư niêm phong có chữ viết tay “QT Đặng Xuân T1” và toàn bộ các vỏ bao gói.

(Vật chứng đang được lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện V, tỉnh Lạng Sơn theo Biên bản giao, nhận đồ vật, tài liệu, vật chứng ngày 16/3/2023).

4. Về án phí: Bị cáo Đặng Xuân T1 phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm để nộp vào ngân sách Nhà nước.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

37
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 17/2023/HS-ST

Số hiệu:17/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Văn Lãng - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/03/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về