Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 17/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN B, TỈNH BẮC KẠN

BẢN ÁN 17/2022/HS-ST NGÀY 15/06/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 15 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Bắc Kạn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số:14/2022/TLST - HS ngày 17tháng 5 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 16/2022/QĐXXST-HS ngày 02/6/2022 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn N. Tên gọi khác: Không.

Sinh ngày 17 tháng 02 năm 1985; Nơi sinh: huyện P, tỉnh Cao Bằng;

Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Phố C, thị trấn P, huyện B, tỉnh Bắc Kạn; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 11/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn K và bà Hoàng Thị B; vợ: Bàn Thị M; con: Có 02 con; Tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân: Bản án số 26/2008/HSST, ngày 26/9/2008 của Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Bắc Kạn xử phạt 28 tháng 25 ngày tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 48 tháng về tội “Cố ý gây thương tích”.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” từ 01/3/2022. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 20 giờ 50 phút ngày 04/02/2022, Tổ công tác Công an huyện B đang làm nhiệm vụ đảm bảo an ninh trật tự tại khu vực Phố C, thị trấn P, huyện B, tỉnh Bắc Kạn, phát hiện một đối tượng nam giới khoảng 40 tuổi đang đi bộ có nhiều biểu hiện nghi vấn tàng trữ trái phép chất ma túy. Tổ công tác yêu cầu kiểm tra hành chính, đối tượng không xuất trình được giấy tờ tùy thân, trình bày họ tên là Nguyễn Văn N, trú tại Phố C, thị trấn P, huyện B, tỉnh Bắc Kạn. Quá trình kiểm tra, Nguyễn Văn N tự giác giao nộp cho Tổ công tác hai gói nhỏ được gói bằng túi nilon màu trắng, bên trong có chứa chất màu trắng dạng cục, N khai nhận hai gói nhỏ giao nộp cho Tổ công tác là ma túy. Tiến hành thử phản ứng phát hiện nhanh chất ma túy đối với hai gói nhỏ trên, kết quả trùng với đặc trưng của chất ma túy, loại Heroine, sau khi thử phản ứng niêm phong trong phong bì ký hiệu “N”. Tiến hành kiểm tra trên người Nguyễn Văn N, Tổ công tác không phát hiện, thu giữ đồ vật tài liệu nào khác.

Cùng ngày 04/02/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B phối hợp với cơ quan chức năng tiến hành lập biên bản mở niêm phong và cân xác định khối lượng chất nghi vấn là ma túy thu giữ của Nguyễn Văn N, xác định: Tổng khối lượng chất màu trắng dạng cục có trong hai gói nhỏ được niêm phong trong phong bì ký hiệu “N” là 0,970g (Không phẩy chín bảy không gam). Sau khi cân, toàn bộ số chất màu trắng trên được gói trong mảnh giấy màu trắng và niêm phong trong phong bì ký hiệu “GĐ” để gửi giám định. Ngày 05/02/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Nguyễn Văn N. Kết quả khám xét không thu giữ đồ vật, tài liệu gì.

Kết luận giám định số 48/KTHS-MT ngày 10/02/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Kạn, kết luận: Mẫu chất màu trắng dạng cục trong phong bì ký hiệu GĐ gửi giám định là ma túy, loại Heroine, có khối lượng là 0,970g (Không phẩy chín bảy không gam) Tại Bản cáo trạng số15/CTVKSBT ngày 16/5/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc Kạn đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249/ BLHS.

* Điều luật có nội dung:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm:

a) …… c) Heroine, … có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam” Tại phiên tòa đại diện viện kiểm sát nhân dân huyện B giữ nguyên nội dung truy tố đối với bị cáo và đề nghị:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38/BLHS.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn N từ 15 tháng tù đến 18 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày chấp hành bản án.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47/BLHS; Điều 106/BLTTHS. Tịch thu tiêu hủy các vật chứng sau:

- Hai túi nilon màu trắng cùng phong bì niêm phong ban đầu ký hiệu “N” được niêm phong trong phong bì ký hiệu “VC”;

- Số ma túy trong phong bì ký hiệu GĐ sau khi giám định còn lại 0,839g (Không phẩy tám ba chín gam) cùng phong bì, bao gói cũ niêm phong vào phong bì mới ký hiệu T48, cơ quan giám định hoàn trả lại.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định.

Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi vi phạm như cáo trạng đã truy tố và không có khiếu nại về hành vi tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

Bị cáo nói lời sau cùng xin được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra , truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền , trình tự , thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự . Quá trình điều tra và tại phiên tòa, nhưng người tham gia tố tụ ng không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Tại phiên tòa xác định: Do bản thân sử dụng và nghiện chất ma túy từ năm 2013 nên vào hồi 20 giờ 50 phút, ngày 04/02/2022 tại khu vực Phố C, thị trấn P, huyện B, tỉnh Bắc Kạn, Nguyễn Văn N đã có hành vi tàng trữ hai gói nhỏ ma túy, loại Heroine, có khối lượng 0,970g (Không phẩy chín bảy không gam), mục đích để sử dụng nhưng chưa kịp sử dụng thì bị Tổ công tác Công an huyện B phối hợp với Công an thị trấn P, huyện B, tỉnh Bắc Kạn phát hiện bắt giữ.

Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội . Xét thấy lời khai nhận của bị cáo phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Vì vậy, việc truy tố, xét xử bị cáo Nguyễn Văn N về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249/ BLHS là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Xét tính chất hành vi do bị cáo thực hiện là nguy hiểm, xâm phạm quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự tại địa phương vì vậy cần xử lý nghiêm nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[3]. Xét nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

- Bị cáo Nguyễn Văn N có nhân thânxấu: Ngày 26/9/2008, bị Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Bắc Kạn xử phạt 28 tháng 25 ngày tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 48 tháng về tội “Cố ý gây thương tích”. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự. Bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51/BLHS. Bị cáo có bố đẻ là ông Nguyễn Văn K được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng nhì nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 2 Điều 51/BLHS.

[4]. Trong vụ án này bị cáo khai mua ma túy với người đàn ông khoảng 45 tuổi, do bị cáo N không biết tên, địa chỉ cụ thể của người này nên Cơ quan Cảnh sát điêu tra Công an huyện B không có cơ sở để xác minh.

[5]. Về hình phạt bổ sung:Xét thấy bị cáo là người sử dụng ma túy, lao động tự do, thu nhập không ổn định. Qua xác minh tại địa phương không có tài sản nên không có khả năng thi hành án do đó không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6]. Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 47/BLHS; Điều 106/BLTTHS.

Hai túi nilon màu trắng cùng phong bì niêm phong ban đầu ký hiệu “N” được niêm phong trong phong bì ký hiệu “VC”; Số ma túy trong phong bì ký hiệu GĐ sau khi giám định còn lại 0,839g (Không phẩy tám ba chín gam) cùng phong bì, bao gói cũ niêm phong vào phong bì mới ký hiệu T48, cơ quan giám định hoàn trả lạiđều không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

[7]. Về án phí: Áp dụng Điều 136/BLTTHS và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Ủy ban thường vụ Quốc hội bị cáo phải chịu án phí theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

 * Tuyên bố

Bị cáo Nguyễn Văn N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

 - Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38/BLHS.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn N 15 (Mười lăm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày chấp hành bản án.

* Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng.

* Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 47/BLHS; Điều 106/BLTTHS.

Tịch thu tiêu hủy các vật chứng sau:

- 01 phong bì niêm phong ký hiệu “T48” bên trong có 0,839g (Không phẩy tám ba chín gam) ma túy, loại Heroine cùng phong bì, bao gói cũ ký hiệu “GĐ”do Cơ quan giám định hoàn trả;

-01 phong bì niêm phong ký hiệu “VC” bên trong có hai túi nilon màu trắng cùng phong bì niêm phong ban đầu ký hiệu “N”.

Tình trạng, số lượng vật chứng như biên bản giao nhận giữa Công an huyện B và Chi cục Thi hành án dân sự huyện B.

* Về án phí: Áp dụng Điều 136/BLTTHS, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Ủy ban thường vụ Quốc hội Bị cáo Nguyễn Văn N phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự”.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

131
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 17/2022/HS-ST

Số hiệu:17/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ba Bể - Bắc Kạn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:15/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về