Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 17/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỐNG NHẤT – TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN SỐ 17/2021/HS-ST NGÀY 24/11/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 24 tháng 11 năm 2021, tại Hội trường A – Tòa án nhân dân huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 05/2021/TLST-HS ngày 01 tháng 10 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 14/2021/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 11 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Võ Thị Ngọc T, sinh năm 2001 tại Tiền Giang; Nơi cư trú: 166, Khu 3, ấp H, xã H, huyện T, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 12/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Phật; Con ông: chưa xác định được và bà Võ Thị Hồng V, sinh năm 1984; Bị cáo là con thứ 01 (nhất) trong gia đình có 02 chị em; Bị cáo có 03 con, con lớn nhất sinh năm 2017; con thứ 02 sinh năm 2019; con thứ 03 sinh ngày 21/6/2021; Bị cáo có 03 chồng: chồng thứ nhất là Lù Vĩnh T1, sinh năm 1995 (cha của con thứ nhất); chồng thứ hai là Trần Phước T2, sinh năm 1998 (cha của con thứ hai); chồng thứ ba là Nguyễn Hoàng L, sinh năm 1999 (cha của con thứ ba);Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú (Bị cáo có mặt tại phiên tòa).

*Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Bà Phạm Thị H, sinh năm 1959 Địa chỉ: 166, Khu 3, ấp H, xã H, huyện T, tỉnh Đồng Nai (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 01 giờ 00 ngày 07/6/2020, tại nhà số 166, ấp H, xã H, huyện T, là nhà của Võ Thị Ngọc T, sinh năm 2001, Công an huyện Thống Nhất tiến hành khám nghiệm hiện trường vụ “Cố ý gây thương tích” do Đoàn Hải A (sinh năm 1988, trú tại: tổ 13, Kp T, thị trấn D, huyện T) gây thương tích cho Nguyễn Hoàng L (sinh năm 1999, trú tại: 93/3, ấp N, xã T, huyện T1, tỉnh Đồng Nai) và Lưu Phương B (sinh năm 1979, tạm trú tại: ấp Hòa B, xã H, huyện T1, tỉnh Đồng Nai), tang vật thu tại hiện trường gồm 02 (hai) xe môtô biển số 60U6- X, 60B8-40Y; 02 (hai) túi nilong chứa tinh thể màu trắng. (Bút lục số 93- 96) Quá trình điều tra xác định:

Võ Thị Ngọc T và Đoàn Hải A có quan hệ tình cảm với nhau, Đoàn Hải A biết T có quan hệ bạn bè với Nguyễn Hoàng L và nhiều lần sử dụng ma túy với Lâm, Lưu Phương B (là cậu của T), đồng thời T cũng có quan hệ tình cảm với Nguyễn Hoàng L. Vào tối ngày 06/6/2020, Đoàn Hải A điều khiển xe mô tô 60B7-16Z đến nhà của Võ Thị Ngọc T thì A nhìn thấy Nguyễn Hoàng L đang sử dụng ma túy và đang nằm trong phòng của T nên A bực tức rồi đi vòng ra phía sau nhà bếp của nhà T lấy 01 con dao thái lan dài khoảng 30 cm cầm trên tay rồi đi vào nhà kêu T ra nói chuyện, L thấy A chửi T nên Lâm ra can ngăn làm nảy sinh mâu thuẫn với A dẫn tới A dùng dao chém Nguyễn Hoàng L gây thương tích. Sau đó, Đoàn Hải A ra ngoài cổng để lấy xe môtô đi thì gặp Lưu Phương B điều khiển xe mô tô 60U6-X đi mua đồ ăn về đến trước cửa nhà của Võ Thị Ngọc T, Đoàn Hải A tiếp tục chửi Lưu Phương B về việc rủ rê T sử dụng ma túy đồng thời cầm dao chém Lưu Phương B gây thương tích rồi Đoàn Hải A lên xe và rời khỏi hiện trường. Lưu Phương B, Nguyễn Hoàng L được đưa đi cấp cứu. Đến 01 giờ 00 phút ngày 07/7/2020, lực lượng Công an huyện T đến khám nghiệm hiện trường, phát hiện thu giữ 02 túi nilong chứa tinh thể màu trắng trong máy giặt LG tại nhà của Võ Thị Ngọc T. (Bút lục số 100-123) Kết luận giám định số 1154/KLGĐ ngày 15/6/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai kết luận 02 (hai) túi nilong chứa tinh thể màu trắng thu giữ tại chỗ ở của Võ Thị Ngọc T là ma túy loại Methamphetamine có tổng khối lượng 1,9567 gam, hoàn lại mẫu vật sau giám định có khối lượng 1,8984 gam Methamphetamine (Bút lục số 36-40) Đối với nguồn gốc 02 túi nilong ma túy trên, kết quả điều tra xác định:

- Võ Thị Ngọc T khai nhận: Vào tối ngày 06/6/2020, Nguyễn Hoàng L đến nhà T chơi, lúc này có Lưu Phương B (là người T gọi bằng cậu), L rủ T, B sử dụng ma túy, L vào phòng của T, lấy ma túy và dụng cụ sử dụng để trong người Lâm để L, B sử dụng. Sau khi sử dụng ma túy xong thì B đi mua đồ ăn, L nằm trong phòng T. Đến khoảng 23 giờ 30 ngày 06/6/2020, Đoàn Hải A đến nhà T nhìn thấy L trong phòng của T nên nảy sinh mâu thuẫn giữa A, T, B dẫn đến A gây thương tích cho Nguyễn Hoàng L. Do lo sợ bị Lực lượng Công an phát hiện trong phòng mình có ma túy nên T gom hết đồ vật gồm ma túy, công cụ sử dụng ma túy bỏ hết vào trong 01 tấm ga giường rồi mang cất giấu trong máy giặt tại nhà T. (Bút lục số 100-112) Nguyễn Hoàng L khai nhận: Vào tối ngày 06/6/2020, L điều khiển xe mô tô biển số 60B8-408.93 đến nhà Võ Thị Ngọc T (là bạn gái của L) chơi thì có Lưu Phương B (tên thường gọi Bích La là cậu của T,) L rủ T, B sử dụng ma túy và được cả hai đồng ý nên L gọi điện thoại cho đối tượng tên B1 (tại xã L, huyện T1) mua 500.000 đồng ma túy đá rồi mang về nhà T để sử dụng, đồng thời L đưa cho B 200.000 đồng đi mua thức ăn, đồ uống. Khi L đã bỏ ma túy vào nỏ thủy tinh nấu lên chờ B về để sử dụng thì Đoàn Hải A đến gây thương tích cho L. Đối với 02 túi nilong chứa ma túy thu trong máy giặt nhà T thì L không biết. (Bút lục số 118-120) Lưu Phương B khai nhận: Vào chiều ngày 06/6/2020, B qua nhà T để giúp T sửa đồ trong nhà T. Đến khoảng 20 giờ 30 cùng ngày thì Nguyễn Hoàng L đến nhà T chơi, sau đó thì L, T vào phòng ngủ đến 23 giờ 00, L rủ B sử dụng ma túy nhưng không biết ma túy do L mang tới hay có sẵn trong nhà của T. Sau khi B sử dụng ma túy xong thì T nhờ B đi mua thức ăn, khi B quay về nhà T thì bị Đoàn Hải A dùng dao gây thương tích. (Bút lục số 121-123) Đoàn Hải A khai nhận: Vào tối 06/6/2020, A đến nhà T thăm T thì nhìn thấy nhà T đang khóa cửa nên A đi quan bên hông nhà T nhìn qua cửa sổ phòng, A nhìn vào thì thấy trong phòng của T có L đang sử dụng ma túy, T ngồi bấm điện thoại. Do thấy bạn gái mình sử dụng ma túy với người khác làm A bực tức nên A mới dùng dao gây thương tích cho L. A chỉ thấy L đang sử dụng ma túy chứ không thấy ma túy nào khác trong phòng của T. (Bút lục số 113-117) Quá trình điều tra, Võ Thị Ngọc T khai nhận cùng Nguyễn Hoàng L bỏ trốn khỏi địa phương nên bị truy nã đến ngày 26/6/2021, Võ Thị Ngọc T đến Công an huyện T trình diện và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên. (Bút lục số 24, 98, 109-112) Vật chứng, đồ vật thu giữ trong vụ án gồm:

- 1,8984 gam Methamphetamine còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 1154/KLGĐ-PC09 ngày 15/6/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T đề nghị tịch thu tiêu hủy. (Bút lục số 124, 124)

- Các xe môtô biển số 60U6-X và 60B8-40Y thu giữ trong quá trình khám nghiệm hiện trường là tài sản của Lưu Phương B, Nguyễn Hoàng L có đầy đủ giấy tờ hợp pháp nên Cơ qan điều tra trả lại cho chủ sở hữu trong vụ án Đoàn Hải A “Cố ý gây thương tích”. (Bút lục số 128-129) Tại cáo trạng số 73/CT.VKS-TN ngày 18 tháng 8 năm 2020 Viện kiểm sát nhân dân huyện T truy tố các bị cáo Võ Thị Ngọc T tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249- Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249- Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Võ Thị Ngọc T từ 01 (Một) năm 03 (ba) tháng đến 01 (Một) năm 06 (sáu) tháng tù; Buộc bị cáo T nộp án phí hình sự.

Biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 46, Điều 47- Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự đề nghị Tòa án tuyên:

- Tịch thu tiêu hủy: 1,8984 gam Methamphetamine còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 1154/KLGĐ-PC 09 ngày 15/6/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai;

* Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo T xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Thống Nhất, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thống Nhất, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung:

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như bản cáo trạng mà Viện kiểm sát đã truy tố, xét lời khai của bị cáo là phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ, đủ cơ sở kết luận:

Vào khoảng 23 giờ 00 phút, ngày 06/6/2020, tại nhà của Võ Thị Ngọc T thuộc ấp H, xã H, huyện T, Đoàn Hải A điều khiển xe mô tô 60B7-16Z đi đến nhà của Võ Thị Ngọc T, khi đến nhà T thì A thấy có Nguyễn Hoàng L đang sử dụng ma túy và nằm trong phòng ngủ của T nên A đi vòng ra phía sau nhà bếp của gia đình T lấy 01 con dao thái lan dài khoảng 30cm cầm trên tay phải đi vào nhà đánh và chém Nguyễn Hoàng L gây thương tích. Đến khoảng 01 giờ 00 phút ngày 07/6/2020, Công an huyện Thống Nhất tổ chức lực lượng tiến hành khám nghiệm hiện trường tại nhà của Võ Thị Ngọc T phát hiện Võ Thị Ngọc T cất giấu trong máy giặt 02 túi nilong chứa ma túy loại Methamphetamine có tổng khối lượng 1,9567 gam. Sau khi bị phát hiện, Võ Thị Ngọc T bỏ trốn, bị truy nã đến ngày 26/6/2021, Võ Thị Ngọc T đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thống Nhất trình diện và khai nhận hành vi phạm tội.

Như vậy, đủ cơ sở kết luận bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249- Bộ luật Hình sự như Viện kiểm sát đã truy tố là có căn cứ chính xác, đúng quy định pháp luật.

Xét bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Về nhận thức, bị cáo hoàn toàn biết ma tuý là loại độc dược gây nghiện do Nhà nước độc quyền quản lý, nghiêm cấm các hoạt động sản xuất, tàng trữ, mua bán, vận chuyển trái phép. Nhưng do bị cáo là người còn trẻ tuổi nên nhận thức pháp luật còn hạn chế nên bị cáo phạm tội, không nghĩ đến hậu quả. Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Ma túy là một loại chất độc gây ra tác hại rất lớn về nhiều mặt cho xã hội, làm ảnh hưởng đến sức khỏe của con người và cũng là mầm mống lan truyền căn bệnh của xã hội như HIV,... Ma túy còn là nguyên nhân dẫn đến những loại tội phạm khác. Do vậy, việc đưa bị cáo ra xét xử là cần thiết, cần có mức án đủ nghiêm, tương xứng với hành vi của bị cáo gây ra nhằm cải tạo, giáo dục răn đe phòng ngừa chung cho xã hội.

[3] Xét nhân thân bị cáo và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ:

* Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Không.

* Những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu, chưa có tiền án, tiền sự, là người có nhân thân tốt theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51- Bộ luật hình sự năm 2015. Hiện nay, bị cáo đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi nên cần giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo nhằm thể hiện tính nhân đạo của pháp luật.

[4] Về xử lý vật chứng và các biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 46- Bộ Luật Hình sự; khoản 2 Điều 106- Bộ luật Tố tụng hình sư.

- Tịch thu tiêu hủy: 1,8984 gam Methamphetamine còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 1154/KLGĐ-PC 09 ngày 15/6/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai.

[5] Về án phí:

Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Đối với Đoàn Hải A đã gây thương tích cho Lưu Phương B, Nguyễn Hoàng L, đã được xử lý bằng vụ án hình sự khác. (Bút lục số 126-129) Đối với hành vi Võ Thị Ngọc T cùng Nguyễn Hoàng L, Lưu Phương B tổ chức sử dụng ma túy, do quá trình điều tra ban đầu Nguyễn Hoàng L, Lưu Phương B khai báo không rõ ràng và hiện nay L, B không có mặt tại địa phương. Ngoài lời khai của Võ Thị Ngọc T xác định ma túy thu giữ tại nhà T là của Nguyễn Hoàng L mang tới thì không có tài liệu, chứng cứ nào khác chứng minh nguồn gốc ma túy sử dụng của ai nên Cơ quan CSĐT Công an huyện Thống Nhất tách ra, tiếp tục xác minh làm rõ, xử lý sau. (Bút lục số 124-125).

Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát phù hợp với nhận định trên nên chấp nhận;

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51- Bộ luật hình sự năm 2015;

Tuyên bố: Bị cáo Võ Thị Ngọc T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1. Về hình phạt:

Xử phạt: + Bị cáo Võ Thị Ngọc T 01 (Một) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo vào trại chấp hành hình phạt tù.

2. Về biện pháp tư pháp:

Áp dụng Điều 46 Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 106- Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy: 1,8984 gam Methamphetamine còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 1154/KLGĐ-PC 09 ngày 15/6/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai. (Theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 30/9/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thống Nhất).

3. Về án phí:

Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

Buộc bị cáo Võ Thị Ngọc T phải nộp 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (vắng mặt) được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

88
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 17/2021/HS-ST

Số hiệu:17/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thống Nhất - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:24/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về