Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 170/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 170/2022/HS-ST NGÀY 26/04/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Hôm nay, ngày 26 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân TP. Biên Hòa mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 150/2022/HSST ngày 01 tháng 4 năm 2022, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 158/2022/QĐXXST-HS ngày 12/4/2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn P H; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Sinh năm 1977 tại tỉnh Đồng Nai; Nơi cư trú: phường P, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên chúa; Trình độ học vấn: Lớp 5/12; Nghề nghiệp: Không; Con ông: Nguyễn VH, sinh năm 1950 (còn sống) và bà TTB, sinh năm 1954 (còn sống). Gia đình có 04 anh em, bị cáo là con thứ hai. Bị cáo có vợ tên Lê TX, sinh năm 1977 và có 03 con, sinh năm 1998, 2000 và năm 2004.

Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân:

- Ngày 15/12/2004, Nguyễn P H bị Tòa án nhân dân huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai xử phạt 14 (Mười bốn) tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Cưỡng đoạt tài sản”. Bị cáo đã chấp hành xong bản án ngày 15/12/2004.

- Ngày 18/12/2017, Nguyễn P H bị Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Bị cáo chấp hành xong bản án ngày 18/8/2019.

Bị cáo bị bắt quả tang ngày 24/12/2021, chuyển tạm giam theo lệnh số 76 ngày 31/12/2021 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Biên Hòa.

(Bị cáo có mặt tại phiên toà)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn P H là người sử dụng trái phép chất ma túy.

Vào khoảng 14 giờ ngày 24/12/2021, H đi đến khu vực tổ 1, khu phố Thiên Bình phường Tam Phước thành phố Biên Hòa gặp một người thanh niên (không rõ lai lịch) mua 01 (một) gói ma túy tổng hợp (hàng đá) với giá 1.000.000đ (Một triệu đồng). Sau khi mua, H đem số ma túy nêu trên về phòng trọ của Phạm Thị N (bạn gái H) thuộc tổ 9, khu phố T, phường TP, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai lấy một phần sử dụng, phần còn lại H chia thành 02 (hai) gói nhỏ rồi cất giấu trong vách tường gần máy giặt. Khi N đi làm về, H sợ N biết H cất giấu ma túy nên H đem số ma túy nêu trên cất giấu vào trong lồng máy giặt.

Đến khoảng 19 giờ 50 phút cùng ngày, khi H đang ở trong phòng trọ của Phạm Thị N thuộc tổ 9, khu phố T, phường TP, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai thì bị Công an phường Tam Phước kiểm tra phát hiện bắt quả tang cùng tang vật.

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn P H khai nhận hành vi phạm tội như trên. Vật chứng thu giữ:

- 02 (hai) gói nilon được hàn kín, bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng đã được niêm phong có chữ ký của Nguyễn P H và dấu mộc của Công an phường Tam Phước;

- 01 điện thoại di động hiệu Sharp màu đen, số sim: 0345023020, số imei:

356110073443050.

Tại Kết luận giám định số 2516/KLGĐ-PC09 ngày 31/12/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng được gửi đến giám định là ma túy, khối lượng 3,0202 gam, loại Methamphetamine.

Tại bản cáo trạng số 174/CT/VKSBH ngày 31/3/2022 của Viện kiểm sát nhân dân TP. Biên Hòa đã truy tố bị cáo Nguyễn P H về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên Tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Nguyễn P H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo với mức án từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù giam.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không nộp thêm tài liệu chứng cứ nào khác và đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên. Bị cáo không có ý kiến gì về quyết định truy tố của Viện kiểm sát. Trong lời nói sau cùng, bị cáo nhận thức hành vi của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo tỏ ra ăn năn hối cải và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an TP. Biên Hòa, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân TP. Biên Hòa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và thừa nhận cáo trạng truy tố bị cáo là đúng sự thật, đúng người, đúng tội, bị cáo không có ý kiến gì đối với Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa. Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai nhận của bị cáo tại Cơ quan điều tra; phù hợp với lời khai của người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang (Bút lục 01); Kết luận giám định (Bút lục số 07); Lời khai bị can (từ 21 đến 48); Lời khai của người chứng kiến (Bút lục số 49 đến 51; 54). Như vậy, đã có đủ cơ sở xác định: Vào lúc 19 giờ 50 phút ngày 24/12/2021, tại phòng trọ thuộc tổ 9, khu phố Thiên Bình, phường Tam Phước, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, Nguyễn P H đang có hành vi tàng trữ trái phép 3,0202 gam ma túy, loại Methamphetamine thì bị Công an phường Tam Phước phát hiện bắt quả tang. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội danh và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự như sau:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

… c) ..., Methamphetamine,... có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam.

Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa đã truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Về tính chất của vụ án: Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được tác hại của ma tuý nhưng vẫn cố ý tàng trữ ma tuý để sử dụng. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, gây mất an ninh, trật tự tại địa phương và tiềm ẩn nguy cơ phát sinh các loại tội phạm khác, góp phần làm gia tăng tệ nạn xã hội, ảnh hưởng xấu đến đời sống cộng đồng. Bị cáo có nhân thân xấu, đã từng bị xử phạt tù về các tội “cưỡng đoạt tài sản”, “mua bán trái phép chất ma tuý” nhưng không lấy đó làm bài học để tu dưỡng, rèn luyện bản thân mà vẫn tiếp tục phạm tội. Do đó, cần áp dụng hình phạt nghiêm khắc tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhằm giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên căn cứ điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo thể hiện chính sách khoan hồng của Nhà nước.

[5] Về vật chứng vụ án: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự, tịch thu tiêu hủy số lượng ma túy còn lại sau giám định; trả lại cho Nguyễn P H 01 điện thoại di động hiệu Sharp màu đen, số sim: 0345023020, số imei: 356110073443050 do không liên quan đến hành vi phạm tội.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

[7] Đối với đối tượng không rõ lai lịch bán ma tuý cho H, Cơ quan điều tra Công an thành phố Biên Hòa tiếp tục xác minh làm rõ và xử lý sau.

Đối với Phạm Thị N quá trình điều tra và tại phiên toà đã làm rõ N không biết H tàng trữ trái phép chất ma túy nên không xử lý.

[8] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa về hình phạt là chưa tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo nên không được chấp nhận. Đối với các nội dung còn lại, quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn P H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn P H 03 (ba) năm 02 (hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 24/12/2021.

2. Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự 2015, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.

Tịch thu tiêu hủy số lượng ma túy còn lại sau giám định tại gói niêm phong số 2516/KLGĐ-PC09 ngày 31/12/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai tại Biên bản giao nhận vật chứng ngày 26/4/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự Thành phố Biên Hòa.

Trả lại cho bị cáo Nguyễn P H 01 (một) điện thoại di động hiệu SHARP màu đen, số sim: 0345023020, số imei: 356110073443050 tại Biên bản giao nhận vật chứng ngày 26/4/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự Thành phố Biên Hòa.

3. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Nguyễn P H phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Bị cáo Nguyễn P H được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

656
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 170/2022/HS-ST

Số hiệu:170/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về