Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 168/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIA LÂM - THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 168/2023/HS-ST NGÀY 26/09/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 9 năm 2023, tại điểm cầu trung tâm - Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội và điểm cầu thành phần - Trại tạm giam số 1 - Công an thành phố Hà Nội, Tòa án nhân dân huyện Gia Lâm xét xử sơ thẩm công khai theo hình thức trực tuyến vụ án hình sự thụ lý số: 164/2023/TLST-HS ngày 11/9/2023; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 162/2023/QĐXXST-HS ngày 13/9/2023 đối với bị cáo:

Trần Văn C - Giới tính: Nam; tên gọi khác: Không; sinh năm: 1979; nơi sinh: Nam Định; HKTT: Tổ 9, phường T, thành phố D, tỉnh Điện Biên; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ văn hóa: 12/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông: Trần Quốc H (c) và con bà: Nguyễn Thị L (c); vợ: Lùng Thị D; có 02 con, con lớn sinh năm 2015, con nhỏ sinh năm 2019; TATS: Theo danh chỉ bản số 322 ngày 27/6/2023 do Công an huyện G lập và lý lịch bị can thì bị cáo có 01 tiền sự và 01 tiền án (đã được xóa).

Bị cáo bị bắt quả tang, tạm giữ từ ngày 19/6/2023; hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 2 - Công an thành phố Hà Nội; có mặt.

* Anh Hoàng Như S, sinh năm 1968 - Trú tại: Đội 15, thôn K, xã D, huyện G, thành phố Hà Nội; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ ngày 19/6/2023, Trần Văn C thuê ông Hoàng Như S, sinh năm 1968 tại thôn K, xã D, huyện G, thành phố Hà Nội, chở C đi từ khu đô thị V, xã D, huyện G, Hà Nội đến khu vực T, Bắc Ninh với mục đích mua ma túy về sử dụng. C nói với ông S là đi gặp bạn tại Bắc Ninh. Khi đến khu vực T, Bắc Ninh, C xuống xe và bảo ông S đứng chờ ở ngoài. C một mình đi bộ đến chỗ có 02 nam thanh niên đang đứng bên đường và hỏi mua 100.000 đồng tiền ma túy.

Một người thanh niên cầm tiền rồi đưa cho C 01 gói giấy màu trắng bên trong chứa chất bột màu trắng. C biết bên trong gói giấy có ma túy nên cầm trong lòng bàn tay phải và bảo ông S chở về. C không nói với ông S là mua được ma túy. Khi ông S chở C đến đoạn đường D thuộc thôn D, huyện G, thành phố Hà Nội thì bị lực lượng Công an kiểm tra, bắt quả tang thu giữ vật chứng.

Tại Bản kết luận giám định số 4165 ngày 27/6/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội, kết luận: Chất bột màu trắng bên trong 01 gói giấy màu trắng là ma túy loại Heroine, khối lượng: 0,175gam.

Tại bản cáo trạng số: 165/CT-VKSGL ngày 08/9/2023 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện G đã truy tố bị cáo Trần Văn C về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa: Bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với nội dung bản cáo trạng của Viện Kiểm sát đã truy tố.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện G giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có t rong hồ sơ vụ án và lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa hôm nay thấy rằng: Hành vi của bị cáo Trần Văn C đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Đề nghị giữ nguyên nội dung bản cáo trạng đã truy tố.

- Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s, x khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

- Về hình phạt: Đề nghị xử phạt bị cáo C mức án từ 13 đến 16 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 19/6/2023.

- Về hình phạt bổ sung: Không.

- Về xử lý vật chứng: Đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 gói giấy màu trắng chứa chất bột màu trắng là ma túy loại Heroine, khối lượng 0,136 gam (đã trừ trích mẫu 0,039 gam).

Nói lời sau cùng, bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Về tố tụng:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện G, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện G, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thành khẩn nhận tội và không có khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng huyện G là hợp pháp.

- Về tội danh:

[2]. Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của người làm chứng, bản Kết luận giám định cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án cũng như nội dung bản cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân huyện G đã truy tố.

Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hồi 12 giờ 30 phút ngày 19/6/2023, tại đường D thuộc địa phận xã D, huyện G, Hà Nội, bị cáo Trần Văn C có hành vi tàng trữ trái phép 0,175 gam chất ma túy loại Heroine mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị Công an phát hiện bắt giữ cùng vật chứng.

[3]. Hành vi của bị cáo Trần Văn C đã có đủ yếu tố cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội danh và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

[4]. Viện Kiểm sát nhân dân huyện G đề nghị truy tố bị cáo về tội danh và điều luật áp dụng là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật.

[5]. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bị cáo đã cố ý trực tiếp xâm phạm đến sự độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy được Bộ luật Hình sự bảo vệ. Do vậy, cần phải nghiêm trị đối với bị cáo.

- Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[6]. Về tình tiết tăng nặng: Nhân thân của bị cáo có 01 tiền sự: Năm 2009, Công an huyện M xử phạt hành chính với hình thức cảnh cáo về hành vi Gây rối trật tự công cộng và 01 tiền án: Bản án hình sự sơ thẩm số 103/2016/HSST ngày 03/3/2016 của Tòa án nhân dân huyện D, tỉnh Điện Biên xử phạt Trần Văn C 24 tháng tù về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy. Tiền án và tiền sự trên của bị cáo đã đương nhiên được xóa theo luật định. Do đó, bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

[7]. Về tình tiết giảm nhẹ: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bản thân bị cáo có bố đẻ là liệt sĩ là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s, x khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

- Về việc áp dụng hình phạt:

[8]. Xét tính chất và mức độ hành vi phạm tội cùng nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy cần phải xử phạt bị cáo một mức án tù trong khung hình phạt nhằm cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian mới có đủ điều kiện cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử cũng xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo vì bị cáo có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như đã nhận định ở trên.

- Về hình phạt bổ sung:

[9]. Xét thấy bị cáo là đối tượng nghiện chất ma túy, không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định, không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo là có căn cứ.

- Về xử lý vật chứng:

[10]. Thu giữ 01 gói giấy màu trắng chứa chất bột màu trắng là ma túy loại Heroine, khối lượng 0,136 gam (đã trừ trích mẫu để giám định 0,039 gam) bị cáo mua về để sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy là có căn cứ.

- Về các vấn đề khác:

[11]. Đối với đối tượng đã bán ma túy cho bị cáo Trần Văn C do không rõ về nhân thân nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện G không có căn cứ để điều tra làm rõ.

- Đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện G về nhân thân của bị cáo, về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, về mức hình phạt, về hình phạt bổ sung, về xử lý vật chứng và về các vấn đề khác đối với bị cáo là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

- Về án phí:

[12]. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12- 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

- Về quyền kháng cáo:

[13]. Bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s, x khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Trần Văn C 13 (Mười ba) tháng tù về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 19/6/2023.

2. Về hình phạt bổ sung: Không.

3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 gói giấy màu trắng chứa chất bột màu trắng là ma túy loại Heroine, khối lượng 0,136 gam (đã trừ trích mẫu để giám định 0,039 gam);

(Hiện có tại Chi c c Thi hành án dân sự huyện G theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 11/9/2023).

4. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Bị cáo Trần Văn C phải chịu 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền làm đơn kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

31
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 168/2023/HS-ST

Số hiệu:168/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gia Lâm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về