Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 168/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 168/2022/HS-ST NGÀY 18/07/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 18 tháng 7 năm 2022, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh T mở phiên tòa xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 150/2022/HSST ngày 01/6/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 165/2022/QĐXXST-HS ngày 30/6/2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Hoàng Văn V, tên gọi khác: không; sinh ngày 11 tháng 8 năm 1976; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Tổ 03, phường T, thành phố T, tỉnh T; Nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 08/12; Dân tộc: Nùng; Giới tính:Nam;Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam;Con ông: Hoàng Văn C (đã chết) và con bà Trần Thị N;Có vợ: Nguyễn Thị P (đã ly hôn), có 02 con;Tiền án -Tiền sự: Không;Nhân thân: Không Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/3/2022 đến nay, hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại Tạm giam Công an tỉnh T (Có mặt tại phiên toà).

* Người chứng kiến: 1.Ông Nguyễn Văn P, sinh năm: 1966, trú tại: Tổ 08, phường T, TP. T, tỉnh T. (Vắng mặt tại phiên tòa).

2.Ông Lưu Văn B, sinh năm: 1949, trú tại: Tổ 08, phường T, TP. T, tỉnh T. (Vắng mặt tại phiên tòa).

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Hoàng Thị Kiều Tr, sinh năm 1995, trú tại: Tổ 01, phường Hương Sơn, TP. T, tỉnh T. ( Có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 09 giờ 30 Pt ngày 24/3/2022, tổ công tác của Công an phường P Xá, thành phố T phối hợp với Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố T làm nhiệm vụ tại khu vực trục đường 3/2 của phường đã phát hiện 01 người đàn ông đang điều khiển xe mô tô mang biển kiểm soát 20B1-xxxxxx có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy. Tổ công tác theo dõi người đàn ông đến địa phận tổ 08, phường Thịnh Đán, thành phố T thì tiến hành kiểm tra. Quá trình kiểm tra, người đàn ông khai tên là Hoàng Văn V. Đồng thời phát hiện, thu giữ tại túi quần bên trái phía trước V đang mặc có 02 gói giấy bạc màu trắng trong đó có 01 gói chứa chất bột màu trắng và 01 gói chứa 01 mảnh viên nén màu hồng. V khai nhận chất bột màu trắng là Heroine, mảnh viên nén màu hồng là ma túy hồng phiến, V mua về mục đích để sử dụng cho bản thân. Kiểm tra trên xe mô tô do V điều khiển, tổ công tác không phát hiện, thu giữ gì khác liên quan đến ma túy. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với V, thu giữ vật chứng theo quy định. Ngoài ra, tổ công tác còn tạm giữ của V 01 xe mô tô mang biển kiểm soát 20B1-xxxxxx, xe đã qua sử dụng.

Ngày 25/3/2022, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố T cân xác định khối lượng: Số chất bột màu trắng thu giữ của V là 0,155 gam và lấy toàn bộ cho vào phong bì niêm phong ký hiệu V1 gửi giám định; Mảnh viên nén màu hồng thu giữ của V có khối lượng 0,051 gam và lấy toàn bộ cho vào bì niêm phong ký hiệu V2 gửi giám định.

Tại Kết luận giám định số 530/KL-KTHS ngày 02/4/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T kết luận: Mẫu chất bột màu trắng trong phong bì ký hiệu V1 gửi giám định là chất ma tuý, loại Heroine. Khối lượng thu giữ ban đầu là 0,155 gam; Mẫu mảnh viên nén màu hồng trong phong bì kí hiệu V2 gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine. Khối lượng thu giữ ban đầu là 0,051 gam.

Tại Cơ quan điều tra, Hoàng Văn V khai nhận: Khoảng 08 giờ 30 Pt ngày 24/3/2022, V điều khiển xe mô tô mang biển kiểm soát 20B1- xxxxxx đi từ nhà đến khu vực đường dân sinh thuộc phường Tích Lương, thành phố T mục đích tìm mua ma túy sử dụng cho bản thân. Đến nơi, V gặp và mua của 01 nam thanh niên không quen biết 01 gói giấy bạc màu trắng bên trong chứa Heroine và 01 gói giấy bạc màu trắng bên trong chứa ma túy hồng phiến với giá 100.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, V cất giấu vào trong túi quần bên trái phía trước rồi điều khiển xe mô tô đi tìm nơi sử dụng. Khi V đi đến khu vực tổ 08, phường Thịnh Đán, thành phố T thì bị tổ công tác phát hiện, bắt quả tang và thu giữ vật chứng như đã nêu trên.

Lời khai nhận của Hoàng Văn V phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định, lời khai của người chứng kiến, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án.

Vật chứng của vụ án: 03 bì niêm phong kí hiệu V1, V2, V3; 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave biển kiểm soát 20B1-xxxxxx. Quá trình điều tra xác định chị Hoàng Thị Kiều T (sinh năm 1995; HKTT: tổ 01, phường Hương Sơn, thành phố T) là người đứng tên đăng ký và là chủ sở hữu hợp pháp của chiếc xe trên. Ngày 24/3/2022 chị T cho Hoàng Văn V là chú ruột mượn chiếc xe nêu trên, khi cho mượn chị T không biết V sử dụng chiếc xe này vào việc đi mua ma túy.Hiện được bảo quản tại kho vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T.

Tại bản cáo trạng số 166/CT-VKSTPTN ngày 30/5/2022 Viện kiểm sát nhân dân thành phố T, tỉnh T đã quyết định truy tố Hoàng Văn V về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như lời khai tại cơ quan điều tra và bản cáo trạng mô tả. Bị cáo thừa nhận hành vi của mình là vi phạm pháp luật.

Kết thúc phần thẩm vấn, tại phần tranh luận, vị Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố T, tỉnh T giữ quyền công tố đã trình bày lời luận tội, giữ nguyên quan điểm truy tố. Sau khi phân tích, đánh giá các chứng cứ, đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Hoàng Văn V phạm tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”:

Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249, Điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Hoàng Văn V: Từ 15 đến 18 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo;

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự ; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu, tiêu hủy: 01 bì niêm phong ký hiệu V1 bên trong chứa 0,140gam mẫu và vỏ bao gói mẫu V1; 01 bì niêm phong ký hiệu V2 bên trong chứa vỏ bao gói mẫu V2; 01 bì niêm phong ký hiệu V3 bên trong chứa bì ban đầu;Trả lại cho chị Hoàng Thị Kiều T, sinh năm 1995, HKTT tại Tổ 01, phường Hương Sơn, thành phố T, tỉnh T: 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA, số loại: WAVE, màu sơn: đen bạc, mang BKS: 20B1- xxxxx, loại xe: Hai bánh từ 50-175cm3, dung tích: 97, số máy: HC12E5730301, số khung: RLHHC1212DY730151, xe cũ đã qua sử dụng;Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí HSST vào ngân sách nhà nước;Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định.

Trong phần tranh luận bị cáo không có ý kiến tranh luận, thừa nhận việc truy tố xét xử là không oan, đúng người, đúng tội.Lời nói sau cùng của bị cáo hứa sửa chữa và xin được hưởng mức án nhẹ nhất, để sớm trở về là người công dân có ích cho gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên và kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân thành phố T trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Hoàng Văn V và những người tham gia tố tụng khác không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó,các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2].Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Hoàng Văn V thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội do bị cáo thực hiện.Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà là khách quan phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người chứng kiến,người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan với vật chứng đã thu được,Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Kết luận giám định và các chứng cứ tài liệu khác được thu thập hợp lệ có trong hồ sơ vụ án.Như vậy, Hội đồng xét xử đã có đủ căn cứ xác định: Hồi 09 giờ 30 Pt ngày 24/3/2022, tại khu vực tổ 08, phường Thịnh Đán, thành phố T, tỉnh T, Hoàng Văn V có hành vi tàng trữ trái phép 0,155 gam Heroine và 0,051 gam Methamphetamine, mục đích sử dụng cho bản thân thì bị tổ công tác của Công an phường P Xá, thành phố T và Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố T phát hiện, bắt quả tang và thu giữ vật chứng.

Hành vi, ý thức của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “ Tàng trữ trái phép chất ma tuý” tội phạm và hình phạt quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

[3]. Bản cáo trạng số 166/CT-VKSTPTN ngày 30/5/2022 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố T truy tố bị cáo Hoàng Văn V về tội danh và điều luật viện dẫn là có căn cứ và đúng quy định của pháp luật.

Nội dung điều 249 quy định như sau:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma tuý mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a… i) Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm b đến điểm h khoản này”.

[4] Về tính chất, mức độ hành vi: Xét tính chất vụ án là nghiêm trọng,hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Hành vi đó đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ quản lý độc dược của Nhà nước gây mất trật tự trị an xã hội. Bị cáo nhận thức được tác hại của ma túy đối với sức khỏe, kinh tế xã hội, nhưng do không làm chủ được bản thân nên đã dẫn đến phạm tội. Hành vi phạm tội của bị cáo cần phải xét xử bằng pháp luật hình sự và có một mức án phù hợp, buộc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội để giáo dục bị cáo, đồng thời răn đe phòng chống tội phạm chung.

[5] Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Hội đồng xét xử thấy: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự trong quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình do đó bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm Hình sự nào theo quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[6] Về hình phạt: Căn cứ vào tính chất, mức độ tội phạm do bị cáo thực hiện, sau khi xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân đối với bị cáo. Hội đồng xét xử thấy rằng bị cáo Hoàng Văn V trong quá trình điều tra và tại phiên tòa đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Vì vậy, cần xem xét giảm một phần hình phạt cho bị cáo để bị cáo yên tâm cải tạo tốt sớm trở về với gia đình và xã hội, thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật. Mức hình phạt mà vị đại diện Viện kiểm sát đề nghị trong phần luận tội là phù hợp.

[7]. Về hình phạt bổ sung: Bị cáo tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng, biên bản xác minh và lời khai của bị cáo xác định bị cáo không có tài sản, thu nhập, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[8] Về việc xử lý hành vi và các đối tượng có liên quan: Về nguồn gốc số ma túy bị thu giữ Hoàng Văn V khai mua của một nam thanh niên không quen biết tại khu vực đường dân sinh thuộc phường Tích Lương, thành phố T, tỉnh T. Quá trình điều tra không xác định được nhân thân, lai lịch của đối tượng này nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố T không có cơ sở làm rõ để xử lý; Đối với chị Hoàng Thị Kiều T (sinh năm 1995; HKTT: Tổ 01, phường Hương Sơn, thành phố T) là chủ sở hữu hợp pháp của chiếc xe mô tô mang biển kiểm soát 20B1-xxxxxx, đã qua sử dụng, quá trình điều tra xác định chị T không biết ngày 24/3/2022 Hoàng Văn V mượn xe để đi mua ma túy nên Cơ quan điều tra không xem xét xử lý.

[9] Về xử lý vật chứng: Cần áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu, tiêu hủy: Tịch thu, tiêu hủy: 01 bì niêm phong ký hiệu V1 bên trong chứa 0,140gam mẫu và vỏ bao gói mẫu V1; 01 bì niêm phong ký hiệu V2 bên trong chứa vỏ bao gói mẫu V2; 01 bì niêm phong ký hiệu V3 bên trong chứa bì ban đầu.

Đối với: 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA, số loại: WAVE, màu sơn: đen bạc, mang BKS: 20B1-xxxxx, loại xe: Hai bánh từ 50-175cm3, dung tích: 97, số máy: HC12E5730301, số khung: RLHHC1212DY730151, xe cũ đã qua sử dụng tại cơ quan điều tra và tại phiên toà bị cáo xác định chiếc xe trên là của cháu bị cáo là Hoàng Thị Kiều T mua đây là chiếc xe duy nhất để T đi lại làm ăn kiếm sống, T không biết việc bị cáo sử dụng chiếc xe trên vào việc phạm tội, quá trình điều tra và tại phiên tòa chị T trình bày chiếc xe trên là xe của chị mua năm 2015, đăng ký xe tên chị, đây là tài sản và là phương tiện đi lại duy nhất để làm ăn sinh sống, bị cáo sử dụng chiếc xe trên vào việc phạm tội chị không biết chị đề nghị Hội đồng xét xử trả lại cho chị chiếc xe trên, xét thấy cần trả lại chiếc xe trên cho chị Hoàng Thị Kiều T quản lý sử dụng.

[10].Án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm nộp ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật.

[11]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Điểm i Khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106, Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự;

1/ Xử phạt: Hoàng Văn V 15 (Mười lăm) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam bị cáo 25/3/2022 - Quyết định tạm giam bị cáo Hoàng Văn V 45 (bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

2/ Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

3/ Về vật chứng: Tịch thu, tiêu hủy: 01 bì niêm phong ký hiệu V1 bên trong chứa 0,140gam mẫu và vỏ bao gói mẫu V1; 01 bì niêm phong ký hiệu V2 bên trong chứa vỏ bao gói mẫu V2; 01 bì niêm phong ký hiệu V3 bên trong chứa bì ban đầu.

Trả lại cho chị Hoàng Thị Kiều T, sinh năm 1995, HKTT tại Tổ 01, phường Hương Sơn, thành phố T, tỉnh T: 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA, số loại: WAVE, màu sơn: đen bạc, mang BKS: 20B1- xxxxx, loại xe: Hai bánh từ 50-175cm3, dung tích: 97, số máy: HC12E5730301, số khung: RLHHC1212DY730151, xe cũ đã qua sử dụng.

(Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 225 ngày 10/6/2022 giữa Công an thành phố T với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T, tỉnh T).

4/Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326 của UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Hoàng Văn V phải nộp 200.000đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách nhà nước.

5/Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự: Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án hình sự sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

15
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 168/2022/HS-ST

Số hiệu:168/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về