Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 166/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QL, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 166/2021/HS-ST NGÀY 28/10/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 10 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân Huyện QL, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 161/2021/TLST-HS ngày 08 tháng 10 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 219/2021/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 10 năm 2021, đối với bị cáo:

Trần Thành H (tên gọi khác: Không), sinh ngày 08/8/1998; nơi sinh: Tại Huyện QL, tỉnh Nghệ An; nơi cư trú: Khối 3, thị trấn C, Huyện QL, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; đoàn thể: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Mạnh H, sinh năm 1974 và bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1974; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không có;

Nhân thân: Năm 2015, H bị Công an Huyện D, tỉnh Nghệ An xử phạt vi phạm hành chính với hình thức cảnh cáo về hành vi: Vận chuyển hàng cấm.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ, tạm giam Công an Huyện QL, tỉnh Nghệ An từ ngày 02/8/2021 cho đến nay; “có mặt”.

- Người làm chứng: Chị Võ Quỳnh H, sinh năm 1999; vắng mặt.

- Người chứng kiến: Ông Hồ Phi G, sinh năm 1955; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 16 giờ ngày 31/7/2021, Trần Thành H mua của nam thanh niên tên Bờm (H khai người giáo xứ Thuận Nghĩa, xã Q, Huyện QL) 500.000 đồng ma túy đá để sử dụng. Khoảng 21 giờ 45 phút cùng ngày, Trần Thành H thuê phòng số 25, nhà nghỉ Bình Dân, thuộc khối 6, thị trấn C, Huyện QL để nghỉ. Sau đó, chị Võ Quỳnh Hương, sinh năm 1996, trú tại thôn 16, xã Quỳnh Văn, Huyện QL đến xin ở cùng. Tại đây, H đưa ma túy ra sử dụng cùng chị Hương. Khoảng 18 giờ ngày 01/8/2021, có nam thanh niên tên Nam (người xã Quỳnh Giang, Huyện QL) gọi điện cho H xin ma túy để sử dụng. H đồng ý và san một ít ma túy sang gói nilon khác để cho Nam. Đến khoảng 21 giờ 45 phút cùng ngày, Trần Thành H bị Công an thị trấn C, Huyện QL vào phòng nghỉ kiểm tra, phát hiện và bắt quả tang; thu giữ trên tay phải H 01 hình hộp chữ nhật màu đỏ, bên trong có 02 túi nilon đều có chứa các hạt tinh thể màu trắng. Trần Thành H khai đó là ma túy dạng đá.

Ngày 02/8/2021, Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an Huyện QL thành lập Hội đồng mở niêm phong, xác định khối lượng, sau khi loại bỏ bao bì, các hạt tinh thể màu trắng thu giữ của Trần Thành H trong 02 gói nhỏ có khối lượng là 0,320g (không phẩy ba trăm hai mươi gam).

Tại bản Kết luận giám định số 1177/KL–PC09 (Đ2-MT) ngày 06/8/2021 của Phòng kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Nghệ An kết luận: 02 mẫu các hạt tinh thể màu trắng (ký hiệu M1, M2) thu giữ của Trần Thành H gửi tới giám định là ma túy (Methamphetamine), có tổng khối lượng là 0,320g (không phẩy ba trăm hai mươi gam).

- Vật chứng vụ án:

01 phong bì thư đã được niêm phong, kích thước (11 x 18)cm, chứa vỏ niêm phong với 02 vỏ nilong và 01 hình hộp chữ nhật;

01 phong bì thư đã được niêm phong, kích thước (12 x 18)cm, chứa 01 điện thoại di động nhãn hiệu SONY, kiểu máy F8331, màu tím than, số IMEl: 352632080093317, gắn sim số 0866.038.567;

01 chai nhựa nhãn hiệu TH true water, trên nắp cắm 01 ống thủy tinh.

Toàn bộ số vật chứng trên đã được cHển đến Chi cục Thi hành án dân sự Huyện QL bảo quản, chờ xử lý.

Bản Cáo trạng số 170/CT-VKS-QL, ngày 04/10/2021 của Viện kiểm sát nhân dân Huyện QL, truy tố bị cáo Trần Thành H, về tội:"Tàng trữ trái phép chất ma túy", theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện VKSND Huyện QL vẫn giữ nguyên quyết định truy tố như Cáo trạng về tội danh, điều luật áp dụng và đề nghị HĐXX tuyên bố bị cáo Trần Thành H phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS.

Xử phạt bị cáo Trần Thành H từ 12- 15 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung bị cáo.

- Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 BLHS; khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì thư đã được niêm phong, kích thước (11x18)cm, và 01 hình hộp chữ nhật và 01 chai nhựa nhãn hiệu TH true water, trên nắp cắm 01 ống thủy tinh.

Hoàn trả lại cho Trần Thành H 01 điện thoại di động nhãn hiệu SONY, kiểu máy F8331, màu tím than, số IMEl: 352632080093317, gắn sim số 0866.038.567.

- Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 BLTTHS; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30- 12- 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án; buộc bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.

Lời nói sau cùng của bị cáo Trần Thành H: Bị cáo rất hối hận về hành vi phạm tội của mình và hứa không sử dụng ma túy nữa.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan Điều tra Công an Huyện QL, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Huyện QL và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người làm chứng và người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Vì vậy, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung vụ án: Lời khai nhận tội của bị cáo Trần Thành H tại phiên tòa phù hợp lời khai có tại hồ sơ; phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang do Công an thị trấn C, Huyện QL lập vào hồi 21 giờ 45 phút ngày 01/8/2021; phù hợp Kết luận Giám định số 1177/KL–PC09 (Đ2-MT) ngày 06/8/2021 của Phòng kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Nghệ An kết luận: 02 mẫu các hạt tinh thể màu trắng (ký hiệu M1, M2) thu giữ của Trần Thành H gửi tới giám định là ma túy (Methamphetamine), có tổng khối lượng là 0,320g (không phẩy ba trăm hai mươi gam). Sự phù hợp của các chứng cứ nêu trên có đủ căn cứ kết luận: Bị cáo Trần Thành H có hành vi tàng trữ 0,320g (không phẩy ba trăm hai mươi gam), ma túy (Methamphetamine), nhằm mục đích sử dụng. Khi thực hiện tội phạm, bị cáo có đủ khả năng nhận thức, điều khiển hành vi của mình và có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Hành vi của bị cáo đủ các yếu tố cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự, đúng như Cáo trạng truy tố là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi và về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Bị cáo có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, là: Khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS.

Vụ án có tính chất nghiêm trọng. Ma túy là chất gây nghiện nguy hiểm đã được Nhà nước độc quyền quản lý. Bị cáo biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật, nhưng do nghiện ma túy mà tàng trữ để sử dụng, thể hiện sự xem thường pháp luật.

Hành vi của bị cáo đã xâm phạm nghiêm trọng trật tự, an toàn xã hội, ảnh hưởng tiêu cực đến tính mạng, sức khỏe và sự phát triển bình thường của con người. Ma túy là một trong nhiều nguyên nhân làm phát sinh các tệ nạn xã hội khác. Do đó, cần xử phạt tù, cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian để giáo dục, cải tạo và răn đe, phòng ngừa chung. Xét thấy, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải;

sinh ra trong gia đình kém may mắn, bố mẹ ly hôn nên cũng cần giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo như đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa là hợp tình hợp lý.

[4] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là người nghiện ma túy, không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định nên không phạt tiền bổ sung.

[5] Đối với người đàn ông tên Bờm bán ma túy cho bị cáo H, qua xác minh tại Công an xã Quỳnh Lâm, Huyện QL, khu vực giáo xứ T không có ai tên Bờm có nhân thân, lai lịch, đặc điểm nhận dạng như bị cáo khai nên không có căn cứ để điều tra, xử lý.

[6] Đối với người đàn ông tên Nam xin ma túy của bị cáo H để sử dụng nhưng không đến lấy, qua xác minh tại Công an xã G, Huyện QL không có ai tên Nam có nhân thân, lai lịch, đặc điểm nhận dạng như bị cáo khai nên không có căn cứ để điều tra, xử lý.

[7] Đối với chị Võ Quỳnh H là người đã cùng sử dụng ma túy với bị cáo H, Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an Huyện QL đã chuyển hành vi vi phạm hành chính về sử dụng trái phép chất ma túy cho cơ quan có thẩm quyền xử lý.

[8] Đối với ông Hồ Phi G là người quản lý nhà nghỉ Bình Dân, không biết bị cáo H thuê phòng nghỉ để sử dụng và tàng trữ ma túy nên không đủ căn cứ xử lý.

[9] Về vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì thư Bưu điện dán kín (kích thước 11 x 18)cm và 01 chai nhựa nhãn hiệu TH true water, trên nắp cắm 01 ống thủy tinh.

Hoàn trả lại cho bị cáo Trần Thành H 01 điện thoại di động nhãn hiệu SONY, kiểu máy F8331, màu tím than, số IMEl: 352632080093317, gắn sim số 0866.038.567, vì không liên quan đến tội phạm.

[10] Về án phí: Bị cáo Trần Thành H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015;

Xử phạt: Bị cáo Trần Thành H 12 (mười hai) tháng tù, về tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy”; thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ, tạm giam ngày 02/8/2021.

2. Về vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì thư đã được niêm phong, kích thước (11 x 18)cm và 01 chai nhựa nhãn hiệu TH true water, trên nắp cắm 01 ống thủy tinh.

Hoàn trả lại cho Trần Thành H 01 điện thoại di động nhãn hiệu SONY; (đặc điểm, chi tiết vật chứng theo biên bản giao, nhận vật chứng được lập vào hồi 08 giờ 30 phút ngày 06/10/2021, giữa Công an Huyện QL với Chi cục Thi hành án dân sự Huyện QL, tỉnh Nghệ An).

3. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30- 12- 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; buộc bị cáo Trần Thành H phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo đối với bản án lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

240
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 166/2021/HS-ST

Số hiệu:166/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Lưu - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/10/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về