Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 164/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH CHÁNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 164/2022/HS-ST NGÀY 30/08/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 8 năm 2022 tại Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 143/2022/TLST-HS ngày 20 tháng 7 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 164/2022/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 8 năm 2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lê Quốc Thanh D; Giới tính: Nam; Sinh năm 1988 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Nơi thường trú: chung cư H, phường P, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh; Nơi cư trú: Không nơi cư trú nhất định; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 10/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Thành H và bà Võ Thị L; Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân:

- Ngày 14/9/2016, Toà án nhân dân huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh ban hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc số 292/2016/QĐ-TA với thời gian 18 tháng. Đến ngày 22/12/2017, bị cáo chấp hành xong quyết định.

Ngày 25/7/2019, Toà án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh ban hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc số 425/2019/QĐ-TA với thời gian 21 tháng.

- Ngày 08/01/2022, Ủy ban nhân dân xã A, huyện B ban hành quyết định số 12/QĐ-UBND đưa người vào Cơ sở xã hội Nhị Xuân để quản lý cắt cơn, giải độc, tư vấn tâm lý trong thời gian làm thủ tục áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Ngày 26/3/2022, Uỷ ban nhân dân xã A, huyện B huỷ quyết định này.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/4/2022. (có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 00 giờ 45 phút ngày 11/4/2022, tổ tuần tra Công an xã A, huyện B phối hợp Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma tuý Công an huyện Bình Chánh tiến hành tuần tra, phát hiện bị cáo Lê Quốc Thanh D đang đứng trước bãi đất trống tại đường Q thuộc tổ 2, ấp 3, xã A, huyện B có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra. Qua kiểm tra, lực lượng công an phát hiện bên trong túi quần phía trước bên trái của D đang mặc có 01 gói nylon hàn kín chứa tinh thể rắn không màu. Bị cáo khai nhận là ma túy tổng hợp, bị cáo cất giữ nhằm mục đích sử dụng cho bản thân. Lực lượng Công an tiến hành thu giữ vật chứng và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang. Qua xét nghiệm, bị cáo dương tính với ma túy.

Kết luận giám định số 2144/KLGĐ-H ngày 18/4/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh xác định: Tinh thể không màu được ký hiệu mẫu m cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,7321g, loại Methamphetamine.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra, bị cáo Lê Quốc Thanh D khai nhận nghiện ma túy từ tháng 4/2022. Vào khoảng 18 giờ 10/4/2022, do hết ma tuý sử dụng nên bị cáo sử dụng số thuê bao 0909953548 điện thoại cho đối tượng tên N (không rõ lai lịch) qua số thuê bao 0936009823 đặt mua 500.000 đồng ma tuý. N đồng ý và nói với bị cáo sẽ nhờ đối tượng tên T (không rõ lai lịch) mua ma túy giúp bị cáo và hẹn địa điểm giao nhận ma túy tại trước khách sạn P (đường số 16, phường B, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh). Sau đó, bị cáo đón xe ôm đến điểm hẹn gặp một đối tượng (không rõ lai lịch) nhận 01 gói ma tuý và đưa 500.000 đồng. Sau khi mua ma túy, bị cáo cất gói ma tuý vào túi quần bên trái phía trước đang mặc và đón xe ôm về khu vực ấp 3, xã A, huyện B. Tại đây, bị cáo xuống xe đi bộ tìm địa điểm để sử dụng ma túy thì bị cơ quan Công an kiểm tra phát hiện như trên. Lời khai của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản thu giữ vật chứng và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Cáo trạng số 127/CT-VKS ngày 12/7/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh đã truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (đã sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa:

Bị cáo Lê Quốc Thanh D khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh đã truy tố. Bị cáo thành khẩn khai báo và có thái độ ăn năn hối cải. Bị cáo không tranh luận và lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh phát biểu vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 và điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) xử phạt bị cáo từ 02 (hai) năm đến 02 (hai) năm 6 (sáu) tháng tù. Đồng thời, đề nghị xử lý vật chứng theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Bình Chánh, điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung: Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ thu thập được và kết quả tranh luận tại phiên tòa, có đủ căn cứ kết luận hành vi phạm tội cụ thể của bị cáo như sau:

Sáng ngày 11/4/2022, bị cáo Lê Quốc Thanh D đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,7321g ma túy ở thể rắn, loại Methamphetamine thì bị bắt quả tang tại trước bãi đất trống trên đường Quản Trọng Linh thuộc tổ 2, ấp 3, xã A, huyện B, số ma túy này bị cáo tàng trữ để sử dụng. Như vậy có đủ căn cứ để kết luận bị cáo Lê Quốc Thanh D đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[3] Về tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên Hội đồng xét xử căn cứ điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tuy nhiên, bị cáo có nhân thân nhiều lần bị xử lý về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy nên Hội đồng xét xử sẽ xem xét khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[4] Đối với các đối tượng N và T đã bán ma túy cho bị cáo chưa rõ lai lịch, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh tiếp tục xác minh, khi làm rõ xử lý sau.

Đối với các số điện thoại liên quan đến vụ án, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh đã gửi thông tin đến Công ty Viễn thông Mobifone để xác minh nhưng chưa có kết quả nên không xem xét.

[5] Về xử lý vật chứng:

- 01 gói niêm phong bên ngoài ghi vụ số 418/22 có chữ ký của Lê Quốc Thanh D, điều tra viên, người chứng kiến và hình dấu của Công an xã An Phú Tây; bên trong có chứa ma túy còn lại sau giám định là vật cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy.

- 01 điện thoại di động hiệu Vivo cùng 02 sim thu giữ của bị cáo: Bị cáo sử dụng để liên hệ mua ma túy nên tịch thu sung Ngân sách Nhà nước.

- 01 đĩa ghi âm, ghi hình lời khai nhận hành vi phạm tội của bị cáo: Dữ liệu điện tử này tiếp tục lưu cùng hồ sơ vụ án.

[6] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

* Tuyên bố bị cáo Lê Quốc Thanh D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

* Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Xử phạt: Bị cáo Lê Quốc Thanh D 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 11/4/2022.

* Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017); Căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;

- Tịch thu tiêu hủy: 01 gói niêm phong bên ngoài ghi vụ số 418/22 có chữ ký của Lê Quốc Thanh D, điều tra viên, người chứng kiến và hình dấu của Công an xã A, huyện B, bên trong có chứa ma túy còn lại sau giám định.

- Tịch thu sung Ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu Vivo cùng 02 sim thu giữ của bị cáo.

(Các vật chứng trên đang giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh theo Biên bản giao nhận đồ vật, tài liệu, vật chứng ngày 28/7/2022 giữa Công an huyện Bình Chánh và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Chánh) - Lưu cùng hồ sơ vụ án: 01 đĩa ghi âm, ghi hình lời khai nhận hành vi phạm tội của bị cáo (Vật chứng này đang lưu giữ trong hồ sơ vụ án)

* Căn cứ vào các Điều 135, 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Về án phí: Bị cáo Lê Quốc Thanh D chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

94
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 164/2022/HS-ST

Số hiệu:164/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Chánh - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về