Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 164/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG THÀNH, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 164/2021/HS-ST NGÀY 05/11/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 05 tháng 11 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 151/2021/TLST-HS ngày 30 tháng 7 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 189/2021/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 9 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 133/2021/HSST-QĐ ngày 15 tháng 10 năm 2021 đối với bị cáo:

Nguyễn Thanh T, sinh năm 2001 tại Hậu Giang.

Nơi đăng ký thường trú: Ấp 13, xã VT, huyện V, tỉnh Hậu Giang.

Nơi sinh sống: Ấp 5, xã A, huyện L, tỉnh Đồng Nai.

Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 8/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Thanh D và bà Nguyễn Thị T; Bị cáo là con duy nhất trong gia đình; Sống chung như vợ chồng không đăng ký kết hôn với chị Nguyễn Thị Huế A, có 01 con chung với chị A tên Nguyễn Thị Tuyết N, sinh năm 2020.

Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 03/5/2021 và chuyển tạm giam từ ngày 12/5/2021 đến nay tại Nhà tạm giữ Công an huyện Long Thành (có mặt).

- Người làm chứng: Anh Hồ Nguyễn Quang T1 (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Thanh T là người nghiện ma túy từ đầu năm 2021. Ngày 02/5/2021, Tuấn sử dụng điện thoại di động liên hệ với một người đàn ông tên Anh H (không rõ nhân thân, lai lịch) hỏi mua 2.600.000 đồng ma túy, Anh Hoàng đồng ý và giao 02 gói ma túy cho Tuấn tại ấp 5, xã A, huyện L, tỉnh Đồng Nai. Đến 08 giờ 40 phút ngày 03/5/2021, Tuấn cầm theo số ma túy nêu trên và điều khiển xe mô tô biển số 69H1-194.99 đến quán nước TV ở ấp 5, xã A, huyện L, tỉnh Đồng Nai thì bị Công an xã A, huyện L, kiểm tra hành chính phát hiện thu giữ vật chứng và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với T.

Tại Kết luận giám định số 873/KLGĐ-PC09 ngày 10/5/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 4,29044 gam, loại Methamphetamine.

Về vật chứng và tài sản tạm giữ gồm: 01 bao thư bên trong có chứa ma túy đã được niêm phong số 873/KLGĐ-PC09 ngày 11/5/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai; 01 xe mô tô biển số 69H1-194.99 và 01 điện thoại di động màu trắng nhãn hiệu Vivo, Tuấn sử dụng vào việc phạm tội.

Tại bản Cáo trạng số 159/CT-VKSLT ngày 27 tháng 7 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành đã truy tố bị cáo Nguyễn Thanh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Nguyễn Thanh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh T mức án từ 03 (ba) năm tù đến 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù.

Về biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, đề nghị tuyên tịch thu tiêu hủy 01 phong bì bên trong có chứa ma túy sau giám định đã niêm phong số 873/KLGĐ-PC09 ngày 11/5/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Vụ án không thuộc trường hợp tạm đình chỉ hoặc trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Long Thành, Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định pháp luật.

[2] Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo khai nhận: Vào lúc 08 giờ 40 ngày 03/5/2021, tại quán nước TV thuộc ấp 5, xã A, huyện L, tỉnh Đồng Nai, bị cáo Nguyễn Thanh T đã có hành vi tàng trữ trái phép 4,29044 gam ma túy, loại Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng thì bị bắt quả tang. Xét thấy, bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai người làm chứng và các chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án.

Như vậy, đã đủ cơ sở kết luận bị cáo Nguyễn Thanh T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) như Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành đã truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng quy định pháp luật.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm vào chế độ quản lý, sử dụng các chất gây nghiện do Nhà nước độc quyền quản lý, đồng thời gây mất an ninh, trật tự tại địa phương, là một trong những nguyên nhân gây ra những tệ nạn xã hội và tội phạm khác. Do đó, cần xử phạt bị cáo một mức án nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, nhằm răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[4] Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). [5] Về biện pháp tư pháp:

Cần tịch thu tiêu hủy 01 phong bì bên trong có chứa ma túy sau giám định đã niêm phong số 873/KLGĐ-PC09 ngày 11/5/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai.

Đối với 01 xe mô tô biển số 69H1-194.99 thuộc sở hữu của ông Đỗ Văn N và 01 điện thoại di động màu trắng nhãn hiệu Vivo thuộc sở hữu của chị Nguyễn Thị Huế A. Ông N và chị A cho bị cáo mượn nhưng không biết bị cáo sử dụng vào việc phạm tội nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Long Thành đã trả lại cho ông N và chị A là có căn cứ.

[6] Đối với người đàn ông tên “Anh H” bán ma túy cho bị cáo không rõ lai lịch địa chỉ, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Long Thành tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau.

[7] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Thanh T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 47, điểm s khoản 1 Điều 51 và điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Căn cứ Điều 106 và Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh và hình phạt:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thanh T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh T 04 (bốn) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 03/5/2021.

2. Về biện pháp tư pháp:

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì bên trong có chứa ma túy sau giám định đã niêm phong số 873/KLGĐ-PC09 ngày 11/5/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai theo biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 29/7/2021 giữa Công an huyện Long Thành với Chi cục Thi hành án dân sự huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai.

3. Về án phí: Buộc bị cáo Nguyễn Thanh T phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo Nguyễn Thanh T được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

148
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 164/2021/HS-ST

Số hiệu:164/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Thành - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về