Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 163/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲNH LƯU, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 163/2023/HS-ST NGÀY 25/10/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 10 năm 2023, tại phòng xử án Tòa án nhân dân huyện Q, tỉnh N xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 149/2023/TLST-HS ngày 03 tháng 10 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 174/2023/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 10 năm 2023, đối với bị cáo:

Họ và tên: Văn Đức D (tên gọi khác: không); sinh năm: 1998 tại tỉnh N; nơi cư trú: xóm H, xã D, huyện D, tỉnh N; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: lớp 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Văn Đức Đ (chết) và bà: Nguyễn Thị H; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: không; tạm giữ, tạm giam: từ ngày 04/8/2023 đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1999. Nơi cư trú: xóm T, xã D, huyện D, tỉnh N. Có mặt.

Người chứng kiến: Chị Phạm Thị P, sinh năm 1988. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Văn Đức D có quen biết với L, T1. Khoảng 14h30 phút ngày 04/8/2023, L gọi điện thoại cho D nhờ mua hộ 1.000.000đ (một triệu đồng) ma túy hồng phiến. L chuyển tiền cho T1 và nói D liên lạc với T1 để lấy ma túy. D đi đến cầu thực phẩm gặp T1 lấy ma túy. Sau khi lấy được ma túy, D cất vào túi quần bên trái và điều khiển xe đi đến nhà nghỉ T2. Khi D đang lên phòng thì bị tổ công tác Công an thị trấn C phối hợp với đội cảnh sát giao thông Công an huyện Q bắt quả tang, thu giữ 01 (một) cục được cuộn bằng bang dính màu đen bên trong có 01 (một) gói màu vàng chứa 17 (mười bảy) viên nén màu hồng, 01 (một) điện thoại di động Nokia, 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda biển kiểm soát 37F2-701.04.

Kết luận giám định số 824/KL-KTHS(Đ2-MT) ngày 10/8/2023, phòng K Công an tỉnh N kết luận: mẫu viên nén màu hồng thu giữ của Văn Đức D là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 1,70 g (một phẩy bảy mươi gam).

Bản cáo trạng số 165/CT-VKS-QL ngày 02/10/2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện Q truy tố Văn Đức D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố. Đồ nghị Hội đồng xót xử áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Văn Đức D từ 18-24 tháng tù.

Hình phạt bổ sung: không áp dụng.

Vật chứng: áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tịch thu, tiêu hủy 01 (một) phong bì bưu được niêm phong bên trong có 15 viên nén, vỏ giấy niêm phong, vỏ gói nilon, băng dính đen. Tịch thu, sung ngân sách Nhà nước 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia của bị cáo. Trả lại 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda màu đen bạc biển kiểm soát 37F2-70104 cho anh Nguyễn Văn T.

Án phí: buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo Văn Đức D khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên, không tranh luận gì về tội danh. Lời nói sau cùng: xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Q, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Q, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Văn Đức D khai nhận: bị cáo đang cất giữ 1,70 g (một phẩy bảy mươi gam) ma túy Methamphetamine trong túi quần để sử dụng thì bị tổ công tác Công an thị trấn C và đội cảnh sát giao thông Công an huyện Q bắt quả tang vào lúc 16h00 phút ngày 04/8/2023 tại nhà nghỉ T2 (khối G, thị trấn C, huyện Q, tỉnh N). Lời khai của bị cáo phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định, lời khai tại Cơ quan điều tra và các chứng cứ, tài liệu khác có tại hồ sơ vụ án. Bị cáo đã có hành vi cất dấu 1,70 g (một phẩy bảy mươi gam) ma túy Methamphetamine để sử dụng, nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền, thống nhất quản lý các chất ma túy của Nhà nước, đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và có năng lực trách nhiệm hình sự. Phạm tội với lỗi cố ý. Như vậy, hành vi của bị cáo có đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự như cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện Q truy tố là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Vụ án có tính chất nghiêm trọng. Bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng, có tình tiết giảm nhẹ thành khẩn khai báo. Căn cứ vào tính chất, mức độ của hành vi phạm tội cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn, cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian, mới có đủ điều kiện để giáo dục, cải tạo bị cáo và phòng ngừa chung. Xử phạt với mức hình phạt như đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp.

[4] Hình phạt bổ phải sung: bị cáo làm nghề lao động tự do, thu nhập không ổn định, nên không áp dụng hình phạt bổ sung.

[5] Biện pháp tư pháp: 01 (một) phong bì bưu được niêm phong bên trong có 15 viên nén, vỏ giấy niêm phong ban đầu, vỏ gói nilon, băng dính đen, là chất cấm và vật không có giá trị sử dụng nên tịch thu, tiêu hủy. 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia bị cáo sử dụng vào việc phạm tội nên tịch thu, sung ngân sách Nhà nước. 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda màu đen bạc biển kiểm soát 37F2-70104 của anh Nguyễn Văn T, bị cáo sử dụng làm phương tiện đi lấy ma túy nhưng anh T không biết nên trả lại cho anh T.

[6] Về những vấn đề khác: kiến nghị cơ quan điều tra tiếp tục tiến hành xác minh người nhờ bị cáo đi lấy ma túy và người đưa ma túy cho bị cáo để xử lý theo quy định của pháp luật.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Văn Đức D 18 (mười tám) tháng tù, về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam (ngày 04/8/2023).

2. Biện pháp tư pháp: áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu, tiêu hủy 01 (một) phong bì bưu được niêm phong bên trong có 15 viên nén, vỏ giấy niêm phong ban đầu, vỏ gói nilon, băng dính đen. Tịch thu, sung ngân sách Nhà nước 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia của bị cáo. Trả lại 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda màu đen bạc biển kiểm soát 37F2-70104 cho anh Nguyễn Văn T. Tình trạng theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 02/10/2023 giữa Công an huyện Q và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Q.

3. Án phí: áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 buộc bị cáo Văn Đức D phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt, có quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân tỉnh N trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

7
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 163/2023/HS-ST

Số hiệu:163/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Lưu - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/10/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về