Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 163/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI BÌNH, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 163/2021/HS-ST NGÀY 16/11/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 16 tháng 11 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 164/2021/HSST ngày 27 tháng 10 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 176/2021/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 11 năm 2021 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn V, sinh ngày 07/7/1987, tại tỉnh Thái Bình.

Nơi cư trú: thôn A, xã L, huyện K, tỉnh Thái Bình; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: Lớp 09/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam; Con ông Nguyễn Văn H và bà Lương Thị L; bị cáo chưa có vợ, con;

Tiền án: có 01 tiền án.

Bản án số 01/2019/HSST ngày 02/01/2019, Tòa án nhân huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình xử phạt 1 năm 6 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 29/8/2018 về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 29/01/2020. Chấp hành xong khoản án phí ngày 14/3/2019.

Tiền sự: Không;

Bị tạm giữ từ ngày 21/7/2021 đến ngày 24/7/2021 và chuyển tạm giam đến nay. Có mặt.

Người chứng kiến:

1. Anh Trịnh Quốc T, sinh năm 1986; Địa chỉ: Số nhà x, tổ y, phường K, thành phố T, tỉnh Thái Bình. Vắng mặt.

2. Anh Vũ Năng T, sinh năm 1997; Địa chỉ: Thôn Q, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Thái Bình. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 6 giờ 30 phút ngày 21/7/2021, Nguyễn Văn V bắt xe ôm của một người không quen biết từ nhà đến khu vực đường Phan Bá Vành, tổ 17, phường Kỳ Bá, thành phố Thái Bình mục đích mua Hêrôin để sử dụng cho bản thân. Đến nơi V gặp và mua của một người nam giới khoảng 40 tuổi, V không biết tên, địa chỉ 01 gói ma túy với giá 200.000 đồng. V nhận ma túy cầm ở lòng bàn tay phải của V rồi đi tìm chỗ sử dụng. Đến khoảng 07 giờ 45 phút cùng ngày, khi V đi đến khu vực đường tránh S2, thôn Tây Sơn, xã Vũ Chính, thành phố Thái Bình thì bị tổ công tác của Công an thành phố Thái Bình yêu cầu dừng lại để kiểm tra. Trước sự chứng kiến của anh Trịnh Quốc Tuấn và anh Vũ Năng Tịnh, V giao nộp cho tổ công tác từ lòng bàn tay phải 01 gói được gói bằng giấy tráng kim màu trắng, bên trong cùng có chứa chất bột màu trắng dạng cục. V khai nhận là Hêrôin vừa mua, mục đích để sử dụng cho bản thân, tổ công tác tiến hành kiểm tra người V không phát hiện, thu giữ gì.

Bản kết luận giám định số 283/KLGĐMT - PC09 ngày 22/7/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình, kết luận: “Mẫu vật gửi giám định là ma túy, loại Heroine (Hêrôin), có khối lượng 0,1606 gam (không phẩy một nghìn sáu trăm linh sáu gam).

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận như trên. Lời khai của những người chứng kiến là anh Trịnh Quốc T và anh Vũ Năng T đều thể hiện như lời khai của bị cáo.

Tại bản cáo trạng số 165/CT-VKSTPTB ngày 26/10/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình truy tố Nguyễn Văn V về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38, Điều 50 Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo từ 01 năm 06 tháng tù đến 01 năm 09 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 21/7/2021. Không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Vật chứng của vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy hoàn trả sau giám định. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không có tranh luận gì. Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo thấy hành vi của mình là vi phạm pháp luật, mong Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về quyết định tố tụng, hành vi tố tụng: Quyết định tố tụng, hành vi tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Bình, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, không ai có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về căn cứ kết tội đối với bị cáo: Xét thấy, lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố; phù hợp với lời khai của người chứng kiến và còn được chứng minh bằng: Biên bản bắt người phạm tội quả tang do Công an thành phố Thái Bình lập hồi 8 giờ 00 phút ngày 21/7/2021 tại trụ sở Công an xã Vũ Chính, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình; Biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ do Công an thành phố Thái Bình lập hồi 9 giờ 00 phút ngày 21/7/2021, tại trụ sở Công an xã Vũ Chính, thành phố Thái Bình; Bản kết luận giám định số 283/KLGĐMT - PC09 ngày 22/7/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ để kết luận: Hồi 07 giờ 45 phút ngày 21/7/2021, tại khu vực đường tránh S2, thôn T, xã V, thành phố T, tỉnh Thái Bình tổ công tác Công an thành phố Thái Bình phát hiện, bắt quả tang Nguyễn Văn V có hành vi cất giấu ở lòng bàn tay phải 01 gói ma túy, loại Heroine (Hêrôin), có khối lượng 0,1606 gam, mục đích để sử dụng cho bản thân.

Điều 249 Bộ luật hình sự, Tội tàng trữ trái phép chất ma túy, quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

… c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;…” Hành vi của bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

[3] Đánh giá tính chất, mức độ hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của nhà nước ta, gây ảnh hưởng đến an ninh, trật tự và an toàn xã hội, gây hoang mang cho quần chúng nhân dân. Bị cáo đã nhận thức rõ việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện, thể hiện sự coi thường pháp luật.

[4] Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo thì thấy:

Quá trình điều tra và tại phiện tòa bị cáo thành khẩn khai báo nên được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo bị xử phạt về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, chưa được xóa án tích mà lại phạm tội nên bị cáo phải chịu 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Xét thấy cần thiết phải cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng cải tạo giáo dục bị cáo và đấu tranh phòng ngừa tội phạm chung. Về hình phạt bổ sung: bị cáo không có việc làm và thu nhập ổn định, không có mục đích kiếm lời nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Về vật chứng: Cần áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự để tịch thu tiêu hủy số ma túy, loại Heroine được hoàn trả sau giám định vì là vật cấm tàng trữ, lưu hành.

[6] Đối với người bán ma túy: Bị cáo khai mua ma túy của một người nam giới khoảng 40 tuổi tại khu vực đường P, tổ z, phường K, thành phố T, nhưng không biết tên, địa chỉ nên không có căn cứ điều tra, xử lý.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 47; Điều 50 Bộ luật Hình sự; Điều 106, Điều 135, Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Úy ban Thường vụ Quốc hội.

[1]. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn V phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

[2]. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn V 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 21/7/2021.

[3].Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy số ma túy được hoàn trả sau giám định được niêm phong trong phong bì hoàn trả mẫu vật giám định số 283/KLGĐMT của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình.

[4]. Về án phí: Buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[5]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 16/11/2021.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

219
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 163/2021/HS-ST

Số hiệu:163/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Bình - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về