Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 162/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LONG XUYÊN, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 162/2021/HS-ST NGÀY 23/12/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 12 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố X xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 152/2021/TLST- HS ngày 11 tháng 11 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 168/2021/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 12 năm 2021 với bị cáo:

Ngô Lâm T, sinh năm 1996, tại thành phố X; nơi cư trú: số 111/3, khóm T 4, phường M, thành phố X, tỉnh A; nghề nghiệp: không; trình độ văn hoá (học vấn): 6/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam;

tôn giáo: Đạo phật; quốc tịch: Việt Nam; con ông Ngô Văn T, sinh năm 1974 và bà Lâm Thị Bích L, sinh năm 1978; bị cáo có vợ là Nguyễn Thị Kim X, sinh năm 1996 và 02 người con, lớn sinh năm 2017, nhỏ sinh năm 2018; nhân thân: Từ nhỏ đến lớn sống chung với cha mẹ, đi học hết lớp 6 thì nghỉ học; tiền án: không.

- Tiền sự: Ngày 12 tháng 11 năm 2019, bị Tòa án nhân dân thành phố X ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời hạn 16 tháng, đến ngày 11 tháng 11 năm 2020 chấp hành xong quyết định.

Bị cáo bị tạm giam từ ngày 05 tháng 8 năm 2021 cho đến nay, có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Lê Văn C, sinh năm 1999; địa chỉ: số 46, khóm T 8, phường H, thành phố X, tỉnh A, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21 giờ 30 phút ngày 06 tháng 5 năm 2021, lực lượng tuần tra của Công an thành phố X kiểm tra hành chính xe mô tô biển số 52H6- xxxx do Lê Văn C điều khiển chở Ngô Lâm T trên đường Lý Thái Tổ, khóm Đông Thịnh 8, phường M, thành phố X. Qua kiểm tra lực lượng Công an phát hiện trong túi quần Jean của T có 01 bao thuốc lá hiệu Jet, bên trong có 04 gói nylon hàn kín chứa tinh thể màu trắng nên lực lượng Công an đã lập biên bản thu giữ, niêm phong vật chứng.

* Vật chứng và tài sản thu giữ gồm:

- Thu của Ngô Lâm T: 01 vỏ bao thuốc lá hiệu Jet, 04 gói nylon hàn kín chứa tinh thể màu trắng, 13 gói nylon rỗng và 01 đoạn ống hút màu xanh; 02 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen, 01 bật lửa màu đỏ, 01 cây kéo bằng kim loại, 01 bóp da màu nâu.

- Thu của Lê Văn C 02 điện thoại di động hiệu Iphone màu đen và màu trắng, 01 bóp da màu đen, 5.175.000đồng.

- 01 xe mô tô, biển số 52H6-xxxx, số khung 00021336, số máy 00573894.

* Kết luận giám định số 133 ngày 26 tháng 6 năm 2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh A, xác định:

01 hộp giấy được niêm phong có in dấu tròn màu đỏ của Công an phường M và các chữ ký ghi tên Trần Nhân H, Võ Hữu T, Trang Quốc H, Ngô Lâm T, Lê Văn C, bên trong có 04 gói nylon hàn kín đều chứa tinh thể màu trắng, gửi đến giám định là ma túy, loại: Methamphetamine, có khối lượng:

0,9160 gam.

* Kết luận giám định số 84 ngày 16 tháng 6 năm 2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh A, xác định:

Xe mô tô màu đỏ - đen, biển số 52H6-xxxx có số khung, số máy bị cắt hàn.

* Phiếu trả lời xác minh phương tiện giao thông cơ giới đường bộ ngày 30 tháng 6 năm 2021, ngày 18 tháng 10 năm 2021 của Phòng C sát giao thông Công an tỉnh A, ghi nhận:

Xe mô tô mang biển số 52H6-xxxx và xe mô tô có số máy 00573894: Không tìm thấy dữ liệu tra cứu.

Tại Cáo trạng số 146/CT-VKS ngày 10 tháng 11 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố X đã truy tố bị cáo Ngô Lâm T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận đã thực hiện hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng truy tố. Bị cáo không có ý kiến tranh luận với lời luận tội của Kiểm sát viên, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

- Kiểm sát viên trình bày lời luận tội: Giữ nguyên Quyết định truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù.

Về xử lý vật chứng, đề nghị áp dụng Điều 47, Điều 48 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu, tiêu hủy: 01 hộp giấy được niêm phong ghi vụ số 133/KLGT- PC09(MT) ngày 26/6/2021, 01 vỏ bao thuốc lá hiệu Jet, 13 gói nylon rỗng, 01 đoạn ống hút màu xanh, 01 bật lửa màu đỏ, 01 cây kéo bằng kim loại; 01 xe mô tô, biển số 52H6-xxxx, số khung 00021336, số máy 00573894.

- Trả lại cho bị cáo T: 02 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen, 01 bóp da màu nâu - Trả lại cho ông Lê Văn C: 02 điện thoại di động hiệu Iphone màu đen và màu trắng, 01 bóp da màu đen và số tiền 5.175.000đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, các quyết định, hành vi tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố X, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố X, Kiểm sát viên được thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục được pháp luật tố tụng hình sự quy định. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các quyết định, hành vi tố tụng do Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên thực hiện đúng quy định của pháp luật.

[2] Về trách nhiệm hình sự: Lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo ở giai đoạn điều tra, truy tố; phù hợp với tài liệu, chứng cứ khác như: Kết luận giám định số 133 ngày 26 tháng 6 năm 2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh A, xác định: 01 hộp giấy được niêm phong có in dấu tròn màu đỏ của Công an phường M và các chữ ký ghi tên Trần Nhân H, Võ Hữu T, Trang Quốc H, Ngô Lâm T, Lê Văn C, bên trong có 04 gói nylon hàn kín đều chứa tinh thể màu trắng, gửi đến giám định là ma túy, loại: Methamphetamine, có khối lượng: 0,9160 gam; phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác được lưu trong hồ sơ vụ án.

Từ các căn cứ trên có cơ sở xác định, bị cáo đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy với tổng khối lượng là 0,9160 gam, loại Methamphetamine để sử dụng.

Bị cáo là người đã trưởng thành, có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là xâm phạm chế độ độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước nhưng vẫn cố ý thực hiện thông qua việc cất giấu ma túy và sự thừa nhận của bị cáo tại phiên tòa. Vì vậy, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Cho nên, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố X truy tố bị cáo ra trước phiên tòa hôm nay và lời buộc tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố X đối với bị cáo tại phiên tòa là có căn cứ, đúng người, đúng tội và phù hợp với quy định của pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân, ma tuý là chất gây nghiện. Một khi đã sử dụng thì khó có thể từ bỏ được. Chúng được xem là những nguyên nhân làm suy giảm sức khỏe, suy thoái nòi giống, phá hoại hạnh phúc gia đình. Tệ nạn ma tuý còn được xem là nguyên nhân làm phát sinh các tệ nạn xã hội, làm lan truyền đại dịch HIV/AIDS và còn là cơ sở phát sinh nhiều tội phạm, ảnh hưởng nghiêm T trật tự, an toàn xã hội.

Bị cáo là người đã trưởng thành, có đủ sức khỏe, đang ở tuổi lao động nhưng lại lao vào con đường nghiện ngập. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, làm ảnh hưởng lớn đến công tác đấu tranh phòng, chống tệ nạn ma túy mà Nhà nước, xã hội đang ra sức thực hiện. Do đó, cần có hình phạt tương xứng, cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để đảm bảo mục đích răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Xét, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo khi quyết định hình phạt.

[5] Về hình phạt bổ sung, xét bị cáo không có nghề nghiệp, có hoàn C kinh tế khó khăn nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp:

Đối với 01 hộp giấy được niêm phong ghi vụ số 133/KLGT-PC09(MT) ngày 26/6/2021, 01 vỏ bao thuốc lá hiệu Jet, 13 gói nylon rỗng, 01 đoạn ống hút màu xanh, 01 bật lửa màu đỏ, 01 cây kéo bằng kim loại. Đây là vật cấm lưu hành và vật không có giá trị sử dụng. Xét, tịch thu tiêu hủy.

Đối với 02 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen, 01 bóp da màu nâu thu giữ của bị cáo T không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại cho bị cáo.

Đối với 02 điện thoại di động hiệu Iphone màu đen và màu trắng, 01 bóp da màu đen và số tiền 5.175.000đồng thu giữ của Lê Văn C không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại cho ông C Đối với 01 xe mô tô, biển số 52H6-xxxx thu giữ của Lê Văn C có số khung, số máy bị cắt hàn. Xét tịch tiêu hủy.

[7] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định pháp luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Tuyên bố bị cáo Ngô Lâm T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy;

Xử phạ t: Bị cáo Ngô Lâm T: 02 (hai) năm tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù của bị cáo được tính kể từ ngày 05 tháng 8 năm 2021.

2. Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 47, Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;

- Tịch thu, tiêu hủy: 01 hộp được niêm phong (Vụ số 133/KLGT- PC09(MT) ngày 26/6/2021; 01 gói thuốc lá hiệu Jet; 13 đoạn bọc nylon trong suốt hàn kín ba đầu, một đầu hở bên trong không chứa gì, chưa qua sử dụng; 01 đoạn ống hút nhựa màu xanh một đầu hàn kín, một đầu vót nhọn, đã qua sử dụng; 01 quẹt ga màu đỏ, đã qua sử dụng; 01 cây kéo kim loại màu trắng, đã qua sử dụng; 01 xe mô tô hiệu Wave màu đỏ biển số 52H6-xxxx, số máy 00573894.

- Trả lại cho bị cáo T:

+ 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen, màn hình cảm ứng, chưa xác định sim số, Model: TA-1063, không xác định được IMEI, đã qua sử dụng chưa kiểm tra bên trong.

+ 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen, loại bàn phím số, chưa xác định sim số, Model: TA-1034, IMEI 1: 355820090995939, IMEI 2: 355820090995937, đã qua sử dụng chưa kiểm tra bên trong.

+ 01 bóp da màu nâu, đã qua sử dụng.

- Trả lại cho ông Lê Văn C:

+ 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu đen, màn hình cảm ứng kính cường lực bị nứt, chưa xác định sim số, Model: A1524, IMEI: 354999072971463, đã qua sử dụng chưa kiểm tra bên trong.

+ 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu trắng, màn hình cảm ứng, chưa xác định sim số, Model: A1522, IMEI: 354391067608708, đã qua sử dụng chưa kiểm tra bên trong.

+ 01 bóp da màu đen và số tiền 5.175.000đồng.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 15/11/2021 giữa Cơ quan C sát điều tra Công an thành phố X với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố X và giấy nộp tiền ngày 25/10/2021 do Cơ quan C sát điều tra- Công an thành phố X nộp vào tài khoản của Công an thành phố X tại Ngân hàng TMCP Đầu Tư và phát triển Việt Nam–chi nhánh A).

3. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Buộc bị cáo Ngô Lâm T phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo T có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh A xét xử phúc thẩm.

Thời hạn kháng cáo của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa là 15 ngày kể từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết theo quy định pháp luật.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

181
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 162/2021/HS-ST

Số hiệu:162/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Long Xuyên - An Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:23/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về