TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NAM SÁCH, TỈNH HẢI DƯƠNG
BẢN ÁN 16/2024/HS-ST NGÀY 10/04/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 10 tháng 4 năm 2024, tại điểm cầu trung tâm - trụ sở Tòa án nhân dân huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương và điểm cầu thành phần – Nhà tạm giữ công an huyện N, tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai trực tuyến vụ án hình sự thụ lý số: 11/2024/TLST-HS ngày 15 tháng 03 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 12/2024/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 03 năm 2024 đối với bị cáo:
Vàng Văn T; Tên gọi khác: không; sinh ngày 02/4/2004; Nơi sinh: bản Nậm Manh, xã N, huyện N, tỉnh Lai Châu; Chỗ ở hiện nay: Thôn A, xã A, huyện N, tỉnh Hải Dương; Dân tộc: Khơ Mú; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 9/12; con ông Vàng Văn T1 và bà Khoàng Thị B; Gia đình có 3 anh em, bị cáo là con thứ nhất. Tiền sự, tiền án: chưa có.
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 30/01/2024 đến ngày 01/02/2024 chuyển tạm giam. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện N. Có mặt tại phiên tòa.
- Người bào chữa cho bị cáo T: Bà Nguyễn Thị Ư – Trợ giúp viên pháp lý – Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh H; Địa chỉ: A T, TP H, tỉnh Hải Dương. Vắng mặt tại phiên tòa.
- Người làm chứng: Anh Cà Văn X, sinh năm 1997 - Người chứng kiến: Chị Trần Thị D, sinh năm 1987 Đều vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vàng Văn T là đối tượng sử dụng ma túy (loại ma túy Heroin). Vào khoảng giữa tháng 01/2024, T đến lưu trú tại thôn A, xã A, huyện N và làm công nhân tại khu công nghiệp A. Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 30/01/2024, T đi ra khu vực cổng chào thôn A, xã A, huyện N gặp và mua của một người đàn ông không rõ tên tuổi, địa chỉ 01 gói ma túy với giá 100.000 đồng, người này đưa cho T 01 gói giấy màu trắng kích thước 2,5cm x 1,5cm bên trong chứa chất tinh thể màu trắng, T trả 100.000 đồng và cầm gói ma tuý bằng tay trái đi tìm chỗ để sử dụng. Khi T đi đến đoạn đường thuộc thôn Đ, xã Q, huyện N thì bị Công an huyện N kiểm tra phát hiện, thu giữ trên tay trái T 01 gói giấy màu trắng kích thước 2,5cm x 1,5cm, bên trong chứa chất bột màu trắng Tại Kết luận giám định số 151/KL-KTHS ngày 31/01/2024 của Phòng K Công an tỉnh H: Mẫu chất bột (dạng cục) màu trắng được niêm phong trong phong bì, ghi thu của Vàng Văn T khối lượng là 0,153gam, là ma tuý, loại Heroine.
- Về vật chứng: 01 phong bì niêm phong dán kín có dấu niêm phong của Phòng K Công an tỉnh H và các chữ ký niêm phong, bên trong có chứa mẫu vật hoàn lại sau giám định là 0,117g ma túy loại Heroine, gói bằng giấy trắng bên ngoài là túi nilon màu trắng, 01 mảnh giấy màu trắng và 01 vỏ phong bì niêm phong mẫu vật gửi giám định hiện đang được quản lý tại kho vật chứng chờ xử lý Tại Cáo trạng số 17/CT-VKS-NS ngày 15/3/2024 Viện kiểm sát nhân huyện N, tỉnh Hải Dương truy tố Vàng Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội và đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Nam Sách giữ nguyên quan điểm như đã truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử: Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Vàng Văn T phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy";
Về hình phạt: Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106, Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án đề nghị: Xử phạt bị cáo Vàng Văn T từ 13 đến 15 tháng tù, thời hạn tính từ ngày tạm giữ 30/01/2024; Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng; Về vật chứng: Tịch thu cho tiêu hủy 0,117g ma túy loại Heroine, gói bằng giấy trắng bên ngoài là túi nilon màu trắng, 01 mảnh giấy màu trắng và 01 vỏ phong bì niêm phong mẫu vật gửi giám định là mẫu vật hoàn lại sau giám định. Về án phí: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
Người bào chữa cho bị cáo bà Ư đề nghị: Nhất trí với tội danh và điều luật mà Viện kiểm sát truy tố và đề nghị HĐXX xem xét đến hoàn cảnh của bị cáo và áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự cho bị cáo hưởng mức án 12 tháng tù, không áp dụng hình phạt bổ sung và miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện N, Điều tra viên, VKSND huyện Nam Sách, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của BLTTHS.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ cơ sở kết luận: Hồi 11 giờ 30 phút ngày 30/01/2024, tại rìa đường thôn Đ, xã Q, huyện N, tỉnh Hải Dương, Vàng Văn T có hành vi cất giấu trái phép 0,153 gam ma túy Heroine, mục đích để sử dụng thì bị bắt quả tang, thu giữ vật chứng. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Vì vậy, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện Nam Sách truy tố bị cáo về tội danh và điều luật như trên là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội được pháp luật bảo vệ. Chất ma túy có tính kích thích thần kinh, có tác hại rất lớn đến sức khỏe của con người cũng như toàn xã hội. Hành vi tàng trữ ma túy để sử dụng còn là một tệ nạn xã hội và là nguyên nhân dẫn đến căn bệnh thế kỷ HIV – AIDS. Vì vậy, cần áp dụng một hình phạt nghiêm, tương xứng với tính chất, hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.
[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. HĐXX sẽ xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo để thể hiện sự khoan hồng của pháp luật [5] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo là lao động tự do, công việc và thu nhập không ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[6] Về vật chứng:
Đối với 0,117g ma túy loại Heroine là mẫu vật hoàn lại sau giám định là vật cấm lưu hành, 01 mảnh giấy màu trắng và 01 vỏ phong bì niêm phong mẫu vật gửi giám định đựng trong 01 phong bì niêm phong dán kín của Phòng K Công an tỉnh H không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
[7] Về án phí: Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm tuy nhiên bị cáo thuộc hộ nghèo lại là người dân tộc thiểu số nằm trong vụ kinh tế đặc biệt khó khăn nên cần miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo theo quy định Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
[8] Quá trình điều tra không xác định được người bán ma túy cho Vàng Văn T nên không có căn cứ để xử lý.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38;
điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106, Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Vàng Văn T phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".
2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Vàng Văn T 12 (mười hai) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 30/01/2024 3. Về xử lý vật chứng:
- Tịch thu cho tiêu hủy 0,117g ma túy loại Heroine; 01 mảnh giấy màu trắng và 01 vỏ phong bì niêm phong mẫu vật gửi giám định đựng trong 01 phong bì niêm phong dán kín số 151/KL-KTHS của Phòng PC09 - Công an tỉnh H (Đặc điểm vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện N và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Nam Sách)
4. Về án phí: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo T. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm./.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 16/2024/HS-ST
Số hiệu: | 16/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Nam Sách - Hải Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 10/04/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về