Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 16/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TAM ĐIỆP,TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 16/2024/HS-ST NGÀY 22/03/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22/3/2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố T xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 13/2024/TLST - HS ngày 21 tháng 02 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:16/2024/QĐXXST – HS ngày 08 tháng 3 năm 2024 đối với bị cáo Lê Phương B, tên gọi khác: không, sinh ngày 12/8/1970, tại T, N; nơi cư trú: tổ 23, phường N S, thành phố T, tỉnh N; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa: 7/10; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; họ tên bố: Lê Xuân B ( đã chết); họ tên mẹ Hoàng Thị X; vợ: Ngô Thị Thuỷ T đã ly hôn, con có 03 con lớn nhất sinh năm 1998, con nhỏ nhất sinh năm 2011; tiền án: không; tiền sự: không. Nhân thân: tại bản án số 06/1989 ngày 25/4/1989 của Toà án Quân sự khu vực 2, Quân khu 3 xử phạt 27 tháng tù về tội “ Gây rối trật tự công cộng” và tội “ Cố ý gây thương tích” bồi thường dân sự 90.000 đồng; án phí hình sự sơ thẩm 4.500 đồng, án phí dân sự 3.000 đồng. Ngày 23/6/1991, chấp hành xong hình phạt tù, bị hại xác nhận đã nhận tiền bồi thường, không có hồ sơ lưu trữ về việc thì hành án dân sự; tại bản án số 91/1993 ngày 12/5/1993 của Toà án nhân dân tỉnh Thanh Hoá xử 03 năm tù về tội “ Cướp tài sản của Công dân”; án phí hình sự sơ thẩm 15.000 đồng. Bản án số 1156 ngày 19/8/1993 của Toà án nhân dân Tối Cao xử y án sơ thẩm, nộp 15.000 đồng án phí phúc thẩm. Ngày 06/1/1995 bị cáo nộp án phí sơ thẩm và phúc thẩm; ngày 21/10/1995 chấp hành xong án phạt tù; tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 0031009 ngày 07/11/2015 của Công an phường 24, quận B, thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 750.000đồng về hành vi “ đánh nhau gây mất trật tự công cộng” ngày 30/11/2015 chấp hành xong. Bị cáo bị bắt quả tang, tạm giữ từ ngày 09/10/2023 đến ngày 15/10/2023 chuyển tạm giam; hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh N (bị cáo có mặt tại phiên toà).

- Người làm chứng: anh Nguyễn Văn Th (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, vụ án có nội dung như sau: Lê Phương B là người sử dụng ma túy, do có nhu cầu sử dụng ma túy, chiều ngày 09/10/2023 B bắt xe ôm đi từ nhà mình đến đầu ngõ 28, đường Trần Phú, thuộc tổ 10A, phường Bắc Sơn, thành phố T, tỉnh N, Lê Phương B xuống xe trả tiền xe ôm, người lái xe ôm đi luôn còn B đi loanh quanh để hỏi mua ma túy, thì gặp một người đàn ông không quen biết, qua nói chuyện B hỏi và mua được của người đàn ông 01 gói ma túy (heroine) với giá 200.000 đồng được bọc bên ngoài bằng 01 khẩu trang y tế màu trắng. Sau khi bán ma tuý người đàn ông bỏ đi, B cất giấu gói ma tuý vào trong túi quần phía trước bên trái đang mặc rồi đi bộ ra đầu ngõ 28 đường Trần Phú để bắt xe đi về, lúc đó khoảng 17 giờ 00 phút cùng ngày thì bị tổ công tác Công an thành phố T nghi ngờ có liên quan đến ma túy đã yêu cầu kiểm tra, tổ công tác yêu cầu B xuất trình căn cước công dân, B xuất trình căn cước mang tên Lê Phương B. Tổ công tác hỏi B có sử dụng ma túy không, B khai nhận bản thân có sử dụng ma túy và đang cất giấu 01 gói ma tuý Heroine trong túi quần phía trước bên trái đang mặc. B tự giác lấy gói ma tuý Heroine ra giao nộp cho tổ công tác. Tổ công tác đã kiểm tra gói ma tuý mà Bình giao nộp, được bọc ngoài bằng 01 khẩu trang y tế màu trắng kích thước (10x17,3)cm, bên trong là 01 gói giấy bạc màu trắng, trong gói giấy bạc màu trắng có chất bột dạng cục màu trắng. B khai nhận đó là ma túy Heroine. Tổ công tác gói lại và tiến hành niêm phong vào trong một phong bì giấy dán kín mép, trên mép dán có chữ ký của B và những người tham gia. Ngoài ra còn thu giữ 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO, màu đen kèm theo 01 thẻ sim điện thoại và số tiền 769.000 đồng cùng 01 căn cước công dân. Sau đó tổ công tác đưa B cùng vật chứng về trụ sở Công an phường Bắc Sơn lập biên bản thu giữ và niêm phong vật chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Tại trụ sở Công an thành phố T, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố T tiến hành mở niêm phong, cân xác định khối lượng chất bột dạng cục mầu trắng thu giữ của Lê Phương B có khối lượng 0,36 gam ký hiệu M gửi đi giám định.

Tại Bản kết luận giám định số 819/KLGĐ-KTHS-MT ngày 14/10/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh N kết luận: Mẫu chất bột dạng cục màu trắng gửi giám định ký hiệu M có khối lượng 0,3585 gam, là ma túy, loại Heroine (Heroin).

Heroine (Heroin) có tên khoa học là Diacetylmonrphine, được quy định tại bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung 2017) và là chất ma túy thuộc danh mục IA, số thứ tự 9, Nghị định 57/2022/NĐ-CP ngày 25/8/2022 của Chính phủ.

Quá trình điều tra, truy tố bị can Lê Phương B thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Tại Bản Cáo trạng số 15/CT– VKSTPTĐ ngày 19/02/2024 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố T đã truy tố bị cáo Lê Phương B để xét xử về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố T giữ nguyên quyết định truy tố như bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lê Phương B phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” - Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt: Lê Phương B từ 21 tháng tù đến 24 tháng tù, thời gian phạt tù tính từ ngày tạm giữ ngày 09/10/2023.

Về xử lý vật chứng: áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Trả lại số tiền 769.000 đồng (bẩy trăm sáu mươi chín nghìn đồng) tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho bị cáo Lê Phương B.

- Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì giấy niêm phong theo đúng quy định của pháp luật bên ngoài ghi số: 819/KL-KTHS-MT, vụ: Lê Phương B, sinh năm 1970, cất giấu trái phép chất ma tuý xảy ra ngày 09/10/2023 tại phường Bắc Sơn, thành phố T, tỉnh N. Mẫu vật hoàn trả gồm M = 0,2769 gam, là ma túy, loại Heroine cùng toàn bộ vỏ, bao gói được niêm phong; 01 khẩu trang y tế màu trắng có kích thước (10x17,3)cm; 01 phong bì giấy niêm phong theo đúng quy định của pháp luật bên ngoài ghi vật chứng lưu kho: 01 mảnh giấy bạc màu trắng có kích thước (5x5,8)cm;

- Về án phí: bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản cáo trạng đã truy tố. Bị cáo thừa nhận do có nhu cầu về sử dụng ma tuý, bị cáo đã đi đến địa bàn phường Bắc Sơn, thành phố T với mục đích tìm mua ma tuý về sử dụng. Khoảng 17 giờ 00 phút ngày 09/10/2023 tại tổ 10A, phường Bắc Sơn, thành phố T khi vừa mua xong gói ma tuý, đang đứng chờ xe để về thì bị Tổ công tác Công an thành phố T phát hiện bắt giữ.

Lời nói sau cùng bị cáo nhận thấy hành vi của mình là vi phạm pháp luật, nên xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm được trở về làm người công dân có ích cho gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi của bị cáo: tại phiên tòa bị cáo Lê Phương B đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng. Biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng đã thu giữ. Kết luận giám định số 819/KLGĐ-KTHS-MT ngày 14/10/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh N và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án nên có đủ cơ sở kết luận: Vào hồi 17 giờ 00 phút ngày 09/10/2023, tại đầu ngõ 28, đường Trần Phú thuộc tổ 10A, phường Bắc Sơn, thành phố T, tỉnh N, Lê Phương B có hành vi tàng trữ trái phép 0,3585 gam, ma túy, loại Heroine nhằm mục đích sử dụng cho bản thân, thì bị Công an thành phố T phát hiện bắt quả tang.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về ma túy; xâm phạm đến trật tự an toàn công cộng, ảnh hưởng xấu đến tình hình trị an ở địa phương. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, bị cáo nhận thức rõ Nhà nước nghiêm cấm mọi hành vi mua bán, tàng trữ, sử dụng ma túy nhưng vẫn cố ý thực hiện hành vi tàng trữ trái phép 0,3585 gam ma túy, loại Heroine để sử dụng. Do đó hành vi phạm tội của bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Điều 249: Tội tàng trữ trái phép chất ma túy.

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

a,…. b,…..

c, Heroine, Cocaine, Methaphetamine, Amphetanmine, MDMA hoặc XLR – 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

...” Bản Cáo trạng số 15/CT– VKSTĐ ngày 19/02/2024 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố T đã truy tố bị cáo Lê Phương B với tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ đúng pháp luật.

[2] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: bị cáo không có.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa thành khẩn khai báo nên bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

- Nhân thân: vào năm 1989 bị cáo bị Toà án Quân sự khu vực 2, Quân khu 3 xử phạt 27 tháng tù về tội “ Gây rối trật tự công cộng” và tội “ cố ý gây thương tích”; năm 1993 bị Toà án nhân dân tỉnh Thanh Hoá xử phạt 03 năm tù về tội “ Cướp tài sản Công dân”. Năm 2015 của Công an phường 24, quận B, thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 750.000đồng về hành vi “ đánh nhau gây mất trật tự công cộng” [3] Về hình phạt: Xét tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ, nhân thân của bị cáo. Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, gây nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về ma túy, việc bị cáo tàng trữ ma túy để sử dụng cho bản thân, làm ảnh hưởng đến sức khỏe và sự phát triển lành mạnh của con người, cũng như ảnh hưởng xấu đến nhiều mặt khác của đời sống xã hội. Khi quyết định hình phạt cần áp dụng hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo nói riêng và răn đe và phòng ngừa chung trong xã hội.

Về hình phạt bổ sung: bị cáo tàng trữ ma tuý để sử dụng cho bản thân, không vì vụ lợi nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[4] Về nguồn gốc số ma túy, bị cáo khai mua của một người đàn ông không biết lai lịch, địa chỉ ở đâu; vì vậy, không đủ căn cứ để điều tra, xử lý đối với người đã bán ma tuý cho bị cáo.

[5] Về vật chứng của vụ án:

+ Đối với số tiền 769.000 đồng đã thu giữ của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội nên căn cứ điểm a, khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự trả lại cho bị cáo.

+ Đối với chiếc điện thoại OPPO cùng thẻ sim điện thoại, do không liên quan đến hành vi phạm tội nên cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại cho bị cáo là đúng pháp luật.

+ Đối với 0,2769 gam chất bột dạng cục màu trắng, là ma túy, loại Heroine được hoàn trả sau giám định cùng toàn bộ vỏ, bao gói được niêm phong trong 01 phong bì giấy niêm phong theo đúng quy định của pháp luật bên ngoài ghi số: 819/KL-KTHS-MT, vụ: Lê Phương B, sinh năm 1970, cất giấu trái phép chất ma tuý xảy ra ngày 09/10/2023 tại phường Bắc Sơn, thành phố T, tỉnh N; 01 phong bì giấy niêm phong theo đúng quy định của pháp luật bên ngoài ghi vật chứng lưu kho: 01 mảnh giấy bạc màu trắng có kích thước (5x5,8)cm; 01khẩu trang y tế màu trắng có kích thước (10x17,3)cm. Đây là những vật chứng chứng minh tội phạm, không còn giá trị sử dụng và là vật Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành do vậy cần áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự cần tịch thu tiêu hủy các vật chứng trên.

[6] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố T, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi và quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của pháp luật.

[7] Án phí hình sự: bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

[8] Về quyền kháng cáo: bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

 Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự. Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố: bị cáo Lê Phương B phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” 2. Về hình phạt: xử phạt bị cáo: Lê Phương B 24 (hai mươi bốn) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ ngày 09/10/2023.

3. Xử lý vật chứng và áp dụng biện pháp tư pháp:

- Trả lại số tiền 769.000 đồng (Bẩy trăm sáu mươi chín nghìn đồng) tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho bị cáo Lê Phương B.

- Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì giấy niêm phong theo đúng quy định của pháp luật bên ngoài ghi số: 819/KL-KTHS-MT, vụ: Lê Phương B, sinh năm 1970, cất giấu trái phép chất ma tuý xảy ra ngày 09/10/2023 tại phường Bắc Sơn, thành phố T, tỉnh N. Mẫu vật hoàn trả gồm M = 0,2769 gam, là ma túy, loại Heroine cùng toàn bộ vỏ, bao gói được niêm phong; 01 khẩu trang y tế màu trắng có kích thước (10x17,3)cm; 01 phong bì giấy niêm phong theo đúng quy định của pháp luật bên ngoài ghi vật chứng lưu kho: 01 mảnh giấy bạc màu trắng có kích thước (5x5,8)cm;

(Chi tiết theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 19/02/2024 và uỷ nhiệm chi lập ngày 19/02/2024 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố T và Chi Cục Thi hành án dân sự thành phố T).

4. Về án phí: bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm báo để bị cáo biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành, người phải thi hành có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

37
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 16/2024/HS-ST

Số hiệu:16/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tam Điệp - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về