Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 16/2024/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH BẮC KẠN

BẢN ÁN 16/2024/HS-ST NGÀY 16/01/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 16 tháng 01 năm 2024 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 14/2023/TLST-HS ngày 22 tháng 11 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 16/2024/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 01 năm 2024 đối với bị cáo:

HOÀNG VĂN Đ; tên gọi khác: Không có; sinh ngày 19 tháng 7 năm 1995 tại Bắc Kạn; nơi thường trú và chỗ ở hiện nay: Thôn BT 1, xã N, huyện C, tỉnh Bắc Kạn; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 9/12; Dân tộc: Tày; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con bà Lường Thị M; Bố đẻ: Không rõ; Vợ, con: không; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 02/9/2023 đến ngày 11/9/2023 được tại ngoại. Có mặt.

* Người bào chữa cho bị cáo: Ông Hoàng Đình T - Luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý của Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh B. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 17 giờ ngày 02 tháng 9 năm 2023, Tổ công tác Công an xã Nông Hạ tuần tra kiểm soát tại khu vực thuộc địa phận thôn Bản Tết 1, xã N, huyện C, tỉnh Bắc Kạn phát hiện Hoàng Văn Đ có biểu hiện tàng trữ trái phép chất ma túy. Kiểm tra và thu giữ trong ví của Đ có 01 gói nhỏ được gói bằng giấy bạc, trắng bọc bên ngoài, bên trong gói bằng giấy bạc (một mặt màu vàng, một mặt màu trắng), bên trong có chứa chất màu trắng dạng cục và bột, nghi là ma túy. Tổ công tác niêm phong trong phong bì ký hiệu Đ.

Trên cơ sở đó, ngày 03/9/2023 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Hoàng Văn Đ, kết quả không phát hiện và tạm giữ đồ vật gì liên quan đến vụ việc.

Tại biên bản mở, đóng niêm phong thử phát hiện nhanh và cân xác định khối lượng chất ma túy ngày 02/9/2023 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C, tỉnh Bắc Kạn xác định: Chất màu trắng dạng cục và bột trong phong bì ký hiệu Đ có khối lượng 0,150g (không phẩy một năm mươi gam), toàn bộ số vật chứng được niêm phong trong phong bì Đ1 gửi giám định. Số phong bì và giấy gói cũ niêm phong trong phong bì Đ2.

Kết quả xét nghiệm chất ma túy ngày 02/9/2023 thể hiện Hoàng Văn Đ dương tính với ma túy.

Tại Kết luận giám định số 281/KL-KTHS ngày 10/9/2023 của Phòng K Công an tỉnh B kết luận:

- Mẫu chất màu trắng dạng bột và cục trong phong bì ký hiệu Đ1 gửi giám định là ma túy; loại Heroine (Heroin), có tên khoa học là Diacetylmorphine, được quy định tại Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Nghị định số 57/2022/NĐ-CP ngày 25/8/2022 của Chính phủ quy định các danh mục chất ma túy và tiền chất.

- Mẫu chất màu trắng dạng bột và cục trong phong bì ký hiệu Đ1 có khối lượng là: 0,150g (không phẩy một năm mươi gam).

Sau giám định mẫu chất trong phong bì ký hiệu Đ1 còn lại: 0,122g (không phẩy một hai hai gam) cùng phong bì bao gói cũ niêm phong vào phong bì mới ký hiệu T160 hoàn trả lại cho Cơ quan trưng cầu.

Tại Cơ quan điều tra, Hoàng Văn Đ khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình về thời gian, địa điểm, số tiền dùng để mua ma tuý, số lượng ma tuý đã mua, tàng trữ. Đ khai nhận 01 gói nhỏ chất màu trắng dạng bột và cục là ma túy, loại Heroine, là của Đ, có được là do vào sáng ngày 29/8/2023 Đ đón xe khách đi từ xã N, huyện C, tỉnh Bắc Kạn đến đường T, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên để mua về sử dụng. Tại đây, Đ gặp và mua 01 gói ma túy với một người đàn ông (không rõ tên tuổi và địa chỉ) với giá 250.000 đồng. Sau đó, Đ tiếp tục đón xe khách đi về nhà tại thôn B Tết 1, xã N, huyện C. Đến ngày 02/9/2023, Đ đi tìm ong và mang theo 01 gói nhỏ ma túy mua được vào ngày 29/8/2023 rồi sử dụng một phần, số còn lại Đ gói lại và để trong ví cá nhân cất trong túi quần sau bên phải mặc trên người. Khi đi đến đoạn đường dân sinh thuộc thôn B Tết 1, xã N, huyện C thì bị Công an xã N, huyện C, tỉnh Bắc Kạn bắt quả tang.

Vật chứng của vụ án gồm:

- 01 phong bì mặt trước ký hiệu T160 và có dòng chữ “Mẫu hoàn trả sau giám định vụ: Hoàng Văn Đ, sinh năm 1995, nơi thường trú và nơi ở hiện tại: BT 1- N- Chợ M- Bắc Kạn tàng trữ trái phép chất ma túy”, mặt sau được niêm phong dán kín, tại mép dán có 03 chữ ký không đọc được, 02 hình dấu tròn đỏ của Phòng K, Công an tỉnh B. Bên trong có 0,122 gam Heroine và phong bì bao gói cũ.

- 01 phong bì mặt trước ký hiệu Đ2 và có dòng chữ “Bì niêm phong và giấy gói cũ vụ Hoàng Văn Đ”, tại mép dán phong bì có dán giấy niêm phong, trên giấy niêm phong có 01 chữ ký “Đô”, 05 chữ ký không đọc được, 06 dòng chữ: “Âu Thị Hồng Nhung, Dịp Thanh H, Hoàng Văn Đ, Nông Văn T1, Lâm Thành T2, Nông Công C”, 02 hình dấu tròn đỏ của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C, bên trong có phong bì và giấy gói cũ.

Ngoài ra, quá trình điều tra còn xác định được bị cáo Hoàng Văn Đ là lao động tự do, thuộc diện hộ nghèo. Đô không có tài sản, đất đai gì. Gia đình không thuộc diện gia đình chính sách.

Tại Cáo trạng số 50/CT-VKSCM ngày 20 tháng 11 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn truy tố Hoàng Văn Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

* Tại phiên tòa:

- Hoàng Văn Đ thành khẩn khai nhận hành vi vi phạm của mình. Ngoài ra, Hoàng Văn Đ có đơn nộp tại phiên tòa đề nghị xin miễn án phí.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Hoàng Văn Đ và đề nghị Hội đồng xét xử:

+ Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Hoàng Văn Đ phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

+ Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; Điều 50; Điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Hoàng Văn Đ từ 12 đến 15 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ đi thời gian tạm giữ. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo do bị cáo lao động tự do, gia đình thuộc hộ nghèo, không có tài sản có giá trị, việc áp dụng hình phạt bổ sung là không khả thi.

+ Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy 02 phong bì niêm phong ký hiệu T160 và Đ2 trong đó có 0,122g hêroin và phong bì, bao gói cũ là vật chứng của vụ án.

- Người bào chữa trình bày lời bào chữa: Việc khởi tố, truy tố, xét xử bị cáo về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật. Nhất trí với quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát. Về mức hình phạt, đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo Hoàng Văn Đ mức án 12 tháng tù. Bên cạnh đó, người bào chữa cũng đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo và đề nghị miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

- Bị cáo nhất trí với quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới, nhất trí với lời bào chữa của người bào chữa, không tự bào chữa, không tranh luận. Tại lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng mức án thấp nhất cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử; chứng cứ, tài liệu do Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên thu thập, do bị cáo cung cấp: Xét thấy đảm bảo theo quy định của pháp luật.

[2] Về tội danh:

Tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội, lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, từ đó có đủ cơ sở xác định:

Vào khoảng 17 giờ ngày 02/9/2023, tại khu vực đường dân sinh thuộc thôn B Tết 1, xã N, huyện C, tỉnh Bắc Kạn, Hoàng Văn Đ đã có hành vi tàng trữ 01(một) gói ma túy, loại Heroine có tổng khối lượng là 0,150g (không phẩy một năm mươi gam), với mục đích sử dụng cho bản thân.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma túy. Bị cáo đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, có năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi nhưng vì mục đích thỏa mãn nhu cầu của bản thân nên vẫn thực hiện.

Như vậy, hành vi của Hoàng Văn Đ đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Điều luật có nội dung:

"1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a)...

....

c) Heroine...Methamphetamine...có khối lượng từ 0,1 đến dưới 05 gam;

...

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”

[3] Về tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội:

Tội phạm Hoàng Văn Đ thực hiện là tội phạm nghiêm trọng, có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội lớn, là nguyên nhân làm phát sinh và gia tăng nhiều loại tội phạm, ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự và an toàn xã hội tại địa phương.

[4] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Bị cáo có nhân thân tốt.

Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, Hoàng Văn Đ thành khẩn khai báo, thể hiện thái độ ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, do đó bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Về hình phạt:

Trên cơ sở quy định của Bộ luật Hình sự, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Về hình phạt chính: Xét thấy cần buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tại cơ sở giam giữ trong một thời hạn tương xứng, phù hợp với thực tiễn xét xử tại địa phương để đảm bảo tính răn đe, giáo dục, phòng ngừa chung.

Về hình phạt bổ sung: Tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định về hình phạt bổ sung đối với người phạm tội, tuy nhiên, vì bị cáo là lao động tự do, gia đình thuộc hộ nghèo, không có tài sản riêng gì có giá trị. Xét thấy, việc áp dụng hình phạt bổ sung là không khả thi, do đó không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng:

Gồm có:

- 01 phong bì mặt trước ký hiệu T160, bên trong có 0,122 gam Heroine và phong bì bao gói cũ.

- 01 phong bì mặt trước ký hiệu Đ2, bên trong có phong bì và giấy gói cũ. Xét thấy là H1 là vật cấm tàng trữ, lưu hành và phong bì, bao gói cũ là vật không có giá trị do đó cần tịch thu, tiêu hủy.

[7] Về vấn đề khác: Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho Hoàng Văn Đ, quá trình điều tra không xác định được đối tượng, do đó không có cơ sở để xử lý, xét thấy là phù hợp.

[8] Về quan điểm giải quyết vụ án của Viện kiểm sát nhân dân và đề nghị của người bào chữa:

Xét thấy quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới và đề nghị của người bào chữa về việc giải quyết vụ án là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật, cần được chấp nhận.

[9] Về án phí: Bị cáo là cá nhân thuộc hộ nghèo và có đơn xin miễn án phí, xét thấy cần miễn nộp tiền án phí sơ thẩm cho bị cáo.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; Điều 47; Điều 50; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điểm đ khoản 1 Điều 12, Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Hoàng Văn Đ phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Hoàng Văn Đ 12 (Mười hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ đi thời gian tạm giữ từ ngày 02/9/2023 đến ngày 11/9/2023.

3. Về vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy đối với:

- 01 phong bì mặt trước ký hiệu T160 và có dòng chữ “Mẫu hoàn trả sau giám định vụ: Hoàng Văn Đ, sinh năm 1995, nơi thường trú và nơi ở hiện tại: BT 1- N- Chợ M- Bắc Kạn tàng trữ trái phép chất ma túy”, mặt sau được niêm phong dán kín, tại mép dán có 03 chữ ký không đọc được, 02 hình dấu tròn đỏ của Phòng K, Công an tỉnh B. Bên trong có 0,122 gam Heroine và phong bì bao gói cũ.

- 01 phong bì mặt trước ký hiệu Đ2 và có dòng chữ “Bì niêm phong và giấy gói cũ vụ Hoàng Văn Đ”, tại mép dán phong bì có dán giấy niêm phong, trên giấy niêm phong có 01 chữ ký “Đô”, 05 chữ ký không đọc được, 06 dòng chữ: “Âu Thị Hồng Nhung, Dịp Thanh H, Hoàng Văn Đ, Nông Văn T1, Lâm Thành T2, Nông Công C”, 02 hình dấu tròn đỏ của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C, bên trong có phong bì và giấy gói cũ.

4. Về án phí: Bị cáo được miễn nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm.

“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6,7,7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự”.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

20
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 16/2024/HS-ST

Số hiệu:16/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - Bắc Kạn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về