TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐB, TỈNH ĐIỆN BIÊN
BẢN ÁN 16/2023/HS-ST NGÀY 15/11/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 15/11/2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện ĐB, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 21/2023/TLST- HS ngày 27/10/2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 17/2023/QĐXXST- HS ngày 01/11/2023 đối với bị cáo:
Họ và tên: Bản P Đ, tên gọi khác: Không, sinh năm: 1987, tại Điện Biên.
Nơi cư trú: Bản D, xã C, huyện ĐB, tỉnh Điện Biên.
Nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: Không; dân tộc: Thái; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lò Văn K, sinh năm 1964 và bà: Lò Thị N (Đã chết); Vợ: Lò Thị T, sinh năm 1981 (Đã ly hôn) và 01 con sinh năm 2015; Tiền án: Không; tiền sự: Không;
Nhân thân: Ngày 08/11/2011 bị TAND huyện ĐB xử phạt 24 tháng tù về tội “Tàng trữ, vận chuyển trái phép chất ma túy”, ngày 01/4/2013 chấp hành xong, nay đã được xóa án tích; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 02/8/2023 đến nay. "Có mặt".
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 11 giờ ngày 02/8/2023, bị cáo đi bộ từ nhà đến khu vực thuộc bản Na Khưa, xã C, huyện ĐB với mục đích là mua ma túy về sử dụng. Bị cáo gặp và mua được 01 gói Heroine và 01 gói Methamphetamine với giá tiền là 50.000đ của một người đàn ông dân tộc Thái (không biết tên và địa chỉ). Sau đó bị cáo cầm 1 ma túy ở trái rồi đi bộ về nhà. Hồi 12 giờ cùng ngày, khi bị cáo đang đi trên đường ở khu vực thôn Nhà Trường, xã C, huyện ĐB thì bị tổ công tác Đồn Biên phòng Pa Thơm – Bộ chỉ huy bộ đội Biên phòng tỉnh Điện Biên phối hợp với Công an xã C, huyện ĐB phát hiện bắt quả tang, thu giữ vật chứng là 01 gói ni lon, bên trong có 01 gói Heroine và 01 gói Methamphetamine do bị cáo đang cầm trên tay trái.
Tại biên bản mở niêm phong, xác định khối lượng ngày 03/8/2023 đã xác định:
- Số chất bột màu trắng thu giữ của bị cáo có khối lượng là 0,27 gam;
- Số viên nén màu hồng thu giữ của bị cáo có khối lượng là 0,20 gam;
- Tổng khối lượng hai chất ma túy thu giữ của bị cáo là 0,47 gam;
Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.
Tại bản kết luận giám định số: 1243/KL-KTHS ngày 11/8/2023, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên đã kết luận:
- Mẫu chất bột màu trắng thu giữ của Bản P Đ gửi giám định là Heroine;
- Mẫu các viên nén màu hồng thu giữ của Bản P Đ gửi giám định là Methamphetamine;
Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận của Hội đồng giám định nêu trên.
Tại bản cáo trạng số: 225/CT-VKSĐB ngày 27/10/2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện ĐB đã truy tố bị cáo Bản P Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điểm i Khoản 1 Điều 249/BLHS.
Tại phiên tòa, đại diện VKSND huyện ĐB vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội danh, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điểm i Khoản 1 Điều 249/BLHS, Điểm s Khoản 1 Điều 51/BLHS; Điều 38/BLHS. Đề nghị xử phạt bị cáo từ 01 năm 05 tháng đến 01 năm 08 tháng tù. Áp dụng Điểm c Khoản 1 Điều 47/BLHS, Điểm a Khoản 2 Điều 106/BLTTHS: Tịch thu tiêu hủy 0,18 gam Heroine hoàn lại sau giám định và 0,17 gam Methamphetamine hoàn lại sau giám định. Căn cứ Khoản 2 Điều 136/BLTTHS, Điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội bị cáo được miễn án phí HSST. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Bị cáo không có ý kiến gì tranh luận, hoàn toàn nhất trí với bản Cáo trạng và Luận tội của Kiểm sát viên.
Lời nói sau cùng của bị cáo: Tôi biết hành vi của tôi là vi phạm pháp luật, tôi xin Hội đồng xét xử xem xét hoàn cảnh gia đình của tôi, cho tôi xin giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về hành vi của bị cáo: Ngày 02/8/2023 bị cáo đi mua ma túy về sử dụng, bị cáo đang trên đường về nhà thì bị bắt quả tang cùng 01 gói Heroine có khối lượng 0,27 gam và 01 gói Methamphetamine có khối lượng 0,20 gam, tổng khối lượng hai chất ma túy là 0,47 gam. Hành vi của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội qủa tang, biên bản mở niêm phong xác định khối lượng và lấy mẫu giám định, kết luận giám định, kết luận điều tra, các bản cung có trong hồ sơ vụ án cũng như cáo trạng đã truy tố. Với hành vi và khối lượng ma túy bị thu giữ thì bị cáo đã phạm vào tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại Điểm i Khoản 1 Điều 249/BLHS. Cáo trạng truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, có căn cứ pháp luật. Bị cáo là người có đủ năng lực để chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi phạm tội của mình.
[2]. Về tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, làm ảnh hưởng đến trật tự trị an, an toàn xã hội; đã xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy. Bởi vì, ma túy là một hiểm họa của nhân loại, đồng thời ma túy cũng là nguyên nhân của nhiều loại tội phạm khác. Chính vì thế mà Nhà nước ta đã nghiêm cấm mọi hành vi có liên quan đến ma túy. Bị cáo nhận thức được tác hại của ma tuý, nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, song bị cáo vẫn cố tình thực hiện. Tội phạm mà bị cáo vi phạm là nghiêm trọng, nên cần phải xử lý theo quy định của pháp luật.
[3]. Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Sau khi phạm tội và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điểm s Khoản 1 Điều 51/BLHS.
Để cải tạo bị cáo trở thành người có ích cho gia đình và xã hội, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian. Hội đồng xét xử xét thấy mức hình phạt đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng đối với bị cáo là phù hợp, cần chấp nhận.
[4]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra Công an huyện ĐB, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện ĐB, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[5]. Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính là phạt tù thì bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại Khoản 5 Điều 249/BLHS là phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài 3 sản. Nhưng xét thấy bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có khả năng thi hành, nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[6]. Nguồn gốc số ma túy bị thu giữ có được là do bị cáo mua của người đàn ông, do bị cáo không biết tên và địa chỉ nên CQĐT không có căn cứ để điều tra xác minh làm rõ được.
[7]. Về án phí: Căn cứ Khoản 2 Điều 136/BLTTHS; Điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Bị cáo thuộc hộ cận nghèo nên được miễn án phí Hình sự sơ thẩm.
[8]. Vật chứng: 0,18 gam Heroine hoàn lại sau giám định và 0,17 gam Methamphetamine hoàn lại sau giám định cần tịch thu tiêu hủy theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 47/BLHS, Điểm a Khoản 2 Điều 106/BLTTHS:
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điểm i Khoản 1 Điều 249; Điểm s Khoản 1 Điều 51/BLHS; Điều 38/Bộ luật Hình sự.
1. Tuyên bố: Bị cáo Bản P Đ phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
2. Hình phạt: Xử phạt bị cáo Bản P Đ 01 năm 08 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt ngày 02/8/2023.
3. Về án phí: Căn cứ Khoản 2 Điều 136/BLTTHS; Điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, bị cáo được miễn án phí HSST.
4. Về vật chứng: Căn cứ Điểm c Khoản 1 Điều 47/BLHS; Điểm a Khoản 2 Điều 106/BLTTHS: Tịch thu, tiêu hủy 0,18 gam Heroine hoàn lại sau giám định, 0,17 gam Methamphetamine hoàn lại sau giám định.
(Vật chứng đã được công an huyện ĐB chuyển cho chi cục thi hành án dân sự huyện ĐB ngày 27/10/2023).
5. Về quyền kháng cáo: Căn cứ các Điều 331, Điều 333/BLTTHS; Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 16/2023/HS-ST
Số hiệu: | 16/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Điện Biên - Điện Biên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 15/11/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về