TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N, TỈNH NINH THUẬN
BẢN ÁN 16/2023/HS-ST NGÀY 18/04/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 18 tháng 4 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Ninh Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 14/2023/HSST ngày 10/3/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 19/2023/QĐXXST-HS ngày 04/4/2023 đối với bị cáo:
Tạ Thanh Q -sinh năm 1984, tại Ninh Thuận; Nơi cư trú: Khu phố x, thị trấn P, huyện N, tỉnh Ninh Thuận; Nghề nghiệp: không; Trình độ văn hóa: Không biết chữ; Dân tộc: kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Tạ Văn S và bà Trần Thị C; Tiền sự: không; Tiền án: Ngày 18/11/2018, Tạ Thanh Q bị Tòa án nhân dân huyện N xử phạt 06 năm tù giam về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, đến ngày 13/5/2022 Q chấp hành xong hình phạt về lại địa phương nhưng chưa được xóa án tích.
Nhân thân: Ngày 30/6/2006, bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 02 năm 6 tháng tù giam về tội “Cướp giật tài sản”, ra tù ngày 24/10/2007 chấp hành xong hình phạt tù. Bị cáo bị tạm giữ ngày 08/01/2023 đến ngày 17/01/2023 chuyển tạm giam, hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện N, Ninh Thuận (có mặt tại phiên tòa).
-Người liên Q:
1. Chị Hoàng Thị H -sinh năm 2010 (vắng mặt).
2. Bà Trần Thị C -sinh năm 1955 (có mặt).
3. Anh Lê Văn Đ -sinh năm: 1999 (vắng mặt). Cùng trú tại: Thôn T, xã P1, huyện N, Ninh Thuận.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Vào khoản 14 giờ 30 phút ngày 08 tháng 01 năm 2023, Công an huyện N, tỉnh Ninh Thuận tổ chức tuần tra phòng chống tội phạm. Khi đi đến đoạn đường thuộc khu phố 13, thị trấn P, huyện N thì thấy Tạ Thanh Q đang điều khiển xe mô tô biển số 59B1-X có biểu hiện nghi vấn nên đã yêu cầu dừng xe kiểm tra thì phát hiện Q đang cất giấu 01 gói nylon chứa chất rắn màu trắng trong túi quần. Q khai nhận chất rắn màu trắng này là ma túy đá. Quá trình điều tra xác định Q sử dụng điện thoại hiệu Nokia sim số 091.8.63X gọi cho một người tên L (không rõ nhân thân lai lịch) để mua 01 tép ma túy với giá 200.000đồng tại khu vực cầu M thuộc khu phố 13, thị trấn P, huyện N. Q đang trên đường về thì bị Công an bắt quả tang và thu giữ 01 gói ma túy; 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen; 01 Ví da màu đen; 01 thẻ bảo hiểm y tế và 01 căn cước Công dân tên Tạ Thanh Q; 01 điện thoại di động hiệu Oppo màu trắng; 01 xe mô tô hiệu Exciter 135 màu đỏ biển số 59B1-X và số tiền 850.000 đồng.
Tại bản kết luận giám định số 45 ngày 12/01/2023 của Phòng kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Ninh Thuận kết luận: Chất rắn màu trắng dạng rắn bên trong 01 gói nylon được hàn kín hai đầu được gửi đến giám định là chất ma túy loại Methamphetamine. Khối lượng của mẫu gửi đến giám định ký hiệu M là: 0,0997gam. Hoàn lại đối tượng sau giám định mẫu M: 0,0393gam cùng toàn bộ đồ vật, bao gói gửi đến giám định.
Cáo trạng số 19/CT-VKS-HS ngày 07/3/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện N truy tố Tạ Thanh Q về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự (BLHS).
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Tạ Thanh Q về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) áp dụng Điểm a Khoản 1 Điều 249; Điểm s Khoản 1 Điều 51, Điều 38 của BLHS. Xử phạt bị cáo từ 12 đến 18 tháng tù. Về vật chứng đề nghị HĐXX tuyên: Tiêu hủy 01 gói ma túy 0,0393g sau giám định. Sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại Nokia 130 màu đen của bị cáo sử dụng làm phương tiện phạm tội. Trả lại cho bị cáo 01 Ví da màu đen; 01 thẻ bảo hiểm y tế và 01 căn cước Công dân tên Tạ Thanh Q, cùng với số tiền 850.000đồng vì không liên Q đến hành vi phạm tội.
Đối tượng tên L đã bán ma túy cho Tạ Thanh Q không rõ nhân thân lai lịch, Cơ Quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N đang tiếp tục xác minh làm rõ.
Bị cáo Tạ Thanh Q đồng ý với Q điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N tại phiên tòa, không tranh luận gì.
Lời nói sau cùng trước khi HĐXX vào nghị án: Bị cáo nhận thấy hành vi của mình là vi phạm pháp luật, xin HĐXX giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định như sau:
[1] Tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của cơ Q điều tra công an huyện N, Điều tra viên,Viện kiểm sát huyện N, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền trình tự thủ tục quy định của BLTTHS. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ Q tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ Q tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi của bị cáo: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai tại cơ Q điều tra và các chứng cứ tài liệu khác đã thu thập được trong quá trình điều tra có tại hồ sơ vụ án, phù hợp với nội dung bản cáo trạng đã truy tố, nên đủ cơ sở kết luận: Vào khoản 14 giờ 30 phút ngày 08 tháng 01 năm 2023, Công an huyện N bắt quả tang Tạ Thanh Q đang tàng trữ trái phép chất ma túy khi đang điều khiển xe mô tô trên đoạn đường thuộc khu phố 13, thị trấn P, huyện N và thu giữ 01 gói ma túy với khối lượng 0,0997gam loại Methamphetamine cùng một số tài sản khác như 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen; 01 Ví da màu đen; 01 thẻ bảo hiểm y tế và 01 căn cước Công dân tên Tạ Thanh Q; 01 điện thoại di động hiệu Oppo màu trắng; 01 xe mô tô hiệu Exciter 135 màu đỏ biển số 59B1-X, cùng với số tiền 850.000đồng. Ngày 18/11/2018, Tạ Thanh Q bị Tòa án nhân dân huyện N xử phạt 06 năm tù giam về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, đến ngày 13/5/2022, Q chấp hành xong hình phạt về lại địa phương nhưng chưa được xóa án tích. Đến ngày 08/01/2023, Q lại tiếp tục tàng trữ trái phép chất ma túy. Hành vi nêu trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 249 của BLHS và quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện N là có căn cứ, đúng pháp luật.
Bị cáo Tạ Thanh Q là người đã trưởng thành có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo là nguy hiểm, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của nhà nước về các chất ma túy, làm phát sinh, lây lan các tệ nạn xã hội, gây mất trật tự an ninh và an toàn xã hội tại địa phương. Bị cáo biết rõ tác hại của ma túy đối với con người và đời sống xã hội, nhưng bị cáo vẫn cố tình phạm tội. Với hành vi phạm tội của bị cáo như trên, HĐXX xét thấy cần cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian để cải tạo, răn đe giáo dục và phòng ngừa chung.
[3] Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, điều kiện nhân thân: Bị cáo Tạ Thanh Q là người có nhân thân xấu đã bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 02 năm 6 tháng tù giam về tội cướp giật tài sản vào năm 2006. Bị cáo có tiền án về tội mua bán trái phép chất ma túy chưa được xóa tích nhưng lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội vào ngày 08/01/2023. Tuy nhiên cần xem xét cho bị cáo là không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điểm s Khoản 1 Điều 51 của BLHS.
[4] Xét Q điểm của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện N về việc định tội, định khung hình phạt, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo tại phiên tòa. HĐXX xét thấy là hoàn toàn tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo nên chấp nhận.
[5] Các vấn đề khác: Đối tượng tên L đã bán ma túy cho bị cáo, không rõ nhân thân lai lịch, Cơ Quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N cần tiếp tục điều tra, làm rõ và xử lý sau là phù hợp.
[6] Về vật chứng: Áp dụng Điều 46, Điều 47 BLHS; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự xử lý:
Số ma túy thu giữ trên người của bị cáo Tạ Thanh Q sau khi trích gửi đi giám định còn lại 0,0393g ma túy loại Methaphetamine được Nhà nước cấm tàng trữ lưu hành là tang vật phạm tội của bị cáo, không có giá trị nên cần tịch thu tiêu hủy.
Quá trình điều tra xác định 01 điện thoại Nokia 130 màu đen gắn sim số 091.8.63X là của bị cáo Tạ Thanh Q đã sử dụng vào mục đích phạm tội, có giá trị nên cần phải tịch thu sung quỹ Nhà nước.
Đối với 01 Ví da màu đen; 01 thẻ bảo hiểm y tế và 01 căn cước Công dân tên Tạ Thanh Q, cùng với số tiền 850.000đồng hiện đang tạm giữ tại tài khoản số 3949.0.1047598.X của Chi cục Thi hành án dân sự huyện N theo giấy ủy nhiệm chi lập ngày 10/3/2023 giữa Công an và Chi cục Thi hành án dân sự huyện N. Quá trình điều tra xác định đây là tiền và vật dùng cá nhân của bị cáo không liên Q đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo Tạ Thanh Q là có căn cứ.
Đối với 01 điện thoại di động hiệu Oppo màu trắng có gắn sim số 0937891615, xác định là điện thoại của chị Hoàng Thị H cho bị cáo Tạ Thanh Q mượn nhưng chị H không biết bị cáo sử dụng điện thoại vào mục đích phạm tội nên Cơ Quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N đã trả cho chị H là phù hợp.
Đối với 01 xe mô tô hiệu Exciter 135 màu đỏ, biển số 59B1-X chưa xác định được chủ sở hữu, nên giao cho cơ Q Cảnh sát điều tra Công an huyện N tiếp tục tạm giữ để xác minh làm rõ và xử lý sau là đúng pháp luật.
[7] Về án phí: Bị cáo Tạ Thanh Q phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật là 200.000đồng.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điểm a Khoản 1 Điều 249; Điểm s Khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
1.Tuyên bố: Bị cáo Tạ Thanh Q phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
2.Xử phạt: Bị cáo Tạ Thanh Q 15 (mười lăm) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ (ngày 08/01/2023).
Áp dụng: Điều 329 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017;
Tiếp tục tạm giam bị cáo Tạ Thanh Q 45 ngày kể từ ngày tuyên án, theo quyết định tạm giam số 46/2023/HSST-QĐTG ngày 18/4/2023 của Hội đồng xét xử để đảm bảo thi hành án.
3.Về vật chứng: Áp dụng Điều 46, Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.
Tuyên: Tịch thu tiêu hủy: Khối lượng hoàn lại sau giám định gồm mẫu M bên trong chứa 0,0393gam ma túy loại Methaphetamine cùng với toàn bộ đồ vật, bao gói gửi đến giám định.
Tịch thu sung quỹ nhà nước: 01 điện thoại Nokia 130 màu đen đã qua sử dụng số IMEI 1: 350085531138441, số IMEI 2: 350085531638440, gắn sim số 091.8.63X.
Trả lại cho bị cáo Tạ Thanh Q gồm: 01 Ví da màu đen đã qua sử dụng; 01 thẻ bảo hiểm y tế tên Tạ Thanh Q; 01 căn cước công dân tên Tạ Thanh Q và số tiền 850.000đồng (tám trăm năm mươi ngàn đồng) đang tạm giữ tại tài khoản số 3949.0.1047598.X của Chi cục Thi hành án dân sự huyện N theo giấy ủy nhiệm chi lập ngày 10/3/2023 giữa Công an huyện N và Chi cục Thi hành án dân sự huyện N, tỉnh Ninh Thuận.
Các vật chứng nêu trên hiện đang được quản lý tại Chi cục thi hành án dân sự huyện N. Đặc điểm vật chứng theo biên bản giao, nhận vật chứng giữa Công an huyện N và Chi cục thi hành án dân sự huyện N, tỉnh Ninh Thuận ngày 09/3/2023.
4.Về án phí: Áp dụng Khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Tạ Thanh Q phải chịu 200.000đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
5.Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Án xử công khai sơ thẩm, có mặt bị cáo-quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (18/4/2023).
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 16/2023/HS-ST
Số hiệu: | 16/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Ninh Phước - Ninh Thuận |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 18/04/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về