TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N, TỈNH BẮC KẠN
BẢN ÁN 16/2023/HS-ST NGÀY 22/06/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 22 tháng 6 năm 2023, tại Hội trường xét xử, Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Bắc Kạn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 14/2023/TLST-HS ngày 16 tháng 5 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 14/2023/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 5 năm 2023; Quyết định tạm ngừng phiên tòa số: 01/2023/HSST-QĐ, ngày 09 tháng 6 năm 2023; Quyết định hoãn phiên tòa số: 02/2023/HSST-QĐ, ngày 13 tháng 6 năm 2023 đối với bị cáo:
Lý Văn H (Tên gọi khác: Không có), sinh ngày 06 tháng 02 năm 1986 tại huyện N, tỉnh Bắc Kạn. Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Thôn L, xã H, huyện N, tỉnh Bắc Kạn. Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Nùng; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Lý Văn H1, sinh năm 1960 và bà Nguyễn Thị H2, sinh năm 1960; Bị cáo chưa có vợ, con.
Tiền án: Không; Tiền sự: 01 tiền sự, ngày 31/8/2022 bị Công an xã H, huyện N xử phạt vi phạm hành chính, phạt cảnh cáo về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.
Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam từ ngày 01/02/2023, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Kạn. Có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Anh Trần Duy H3, sinh năm 1986 - Địa chỉ: Thôn B, xã H, huyện N, tỉnh Bắc Kạn. Vắng mặt.
Ông Trần Văn T, sinh năm 1956 - Địa chỉ: Thôn B, xã H, huyện N, tỉnh Bắc Kạn. Vắng mặt.
Bà Nguyễn Thị H2, sinh năm 1960 - Địa chỉ: Thôn L, xã H, huyện N, tỉnh Bắc Kạn. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 18 giờ 20 phút, ngày 01/02/2023, tại khu vực đường bê tông dân sinh thuộc thôn N, xã H, huyện N, tỉnh Bắc Kạn tổ công tác Công an huyện N đang thực hiện nhiệm vụ thì phát hiện bắt quả tang Lý Văn H điều khiển xe mô tô biển số đăng ký 97F1-8279 đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Tang vật thu giữ, tạm giữ:
01 (một) gói nilon trong suốt bên trong có 05 (năm) gói nhỏ ma túy (Heroine), mỗi gói được gói bằng một mảnh giấy mặt ngoài màu vàng, mặt trong màu trắng để trong túi áo khoác đằng trước bên trái H đang mặc trên người, tổ công tác đã thu giữ niêm phong trong phong bì ký hiệu M1. Ngoài ra, tổ công tác còn tạm giữ 02 (hai) điện thoại di động bàn phím bấm nhãn hiệu Masstel và Nokia, 01 (một) xe mô tô biển số đăng ký 97F1-8279 kèm chìa khóa xe. Hồi 10 giờ 50 phút ngày 02/02/2023, Cơ quan điều tra đã tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở và khu vực liên quan của H, qua khám xét không phát hiện thu giữ đồ vật, tài liệu gì.
Hồi 23 giờ 05 phút ngày 01/02/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N tiến hành mở niêm phong phong bì ký hiệu M1 thấy bên trong có 01 (một) gói nilon trong suốt, bên trong gói này có 05 (năm) gói nhỏ chứa chất bột màu trắng, cân riêng số chất màu trắng dạng bột có khối lượng 0,30g (không phẩy ba không gam) và thử phản ứng nhanh phát hiện chất ma túy, sau đó tiến hành niêm phong lại toàn bộ số ma túy trong phong bì ký hiệu B1 để gửi trưng cầu giám định.
Tại Bản kết luận giám định số 53/KL-KTHS ngày 10/02/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Kạn kết luận: Mẫu chất bột màu trắng trong phong bì ký hiệu B1 gửi giám định là ma túy, loại Heroine, có khối lượng là: 0,30g (không phẩy ba không gam).
Quá trình điều tra, xét nghiệm ma túy đối với Lý Văn H, kết quả dương tính với chất ma túy, Lý Văn H khai nhận: Bản thân là người nghiện ma túy, trước ngày bị bắt khoảng hai ngày, H xuống thành phố B mua được một gói nhỏ ma túy với giá 200.000 đồng với một người đàn ông (không rõ họ tên, địa chỉ) và đã một mình sử dụng hết số ma túy này. Đối với số ma túy cơ quan công an thu giữ ngày 01/02/2023 là của H mua để sử dụng cho bản thân, cụ thể khoảng 16 giờ cùng ngày 01/02/2023 H điều khiển xe mô tô biển số đăng ký 97F6-0898 đi từ nhà thuộc thôn L, xã H đến khu chợ thuộc thôn N, xã H chơi thì gặp Trần Duy H3, sinh năm 1986, trú tại Thôn B, xã H, huyện N, sau đó H và H3 có nói chuyện với nhau đi tìm mua ma túy để sử dụng, H đưa cho H3 số tiền 200.000 đồng nhờ H3 mua giúp ma túy rồi H lấy số điện thoại của H3, sau đó H3 cầm tiền xong mượn xe mô tô biển số đăng ký 97F6-0898 của H đi, còn H đi xe mô tô biển số đăng ký 97F1-8279 của H3 đến khu vực đường liên thôn L - N chờ. Khoảng một giờ đồng hồ sau H gọi điện thoại cho H3 hỏi đang ở đâu, rồi H điều khiển xe mô tô của H3 đến khu vực đường xuống Trạm y tế xã H thì gặp nhau và H3 đưa cho H một gói nilon bên trong có 05 (năm) gói nhỏ ma túy (Heroine), H cất giấu số ma túy này trong túi áo khoác đang mặc trên người, sau đó H3 tiếp tục điều khiển xe mô tô của H còn H tiếp tục điều khiển xe mô tô của H3 đi về nhà, khi H đi đến đoạn đường bê tông dân sinh thuộc thôn N, xã H thì bị cơ quan công an phát hiện bắt quả tang, thu giữ toàn bộ tang vật.
Quá trình điều tra, cơ quan điều tra đã lập biên bản kiểm tra, xét nghiệm ma túy đối với Trần Duy H3, kết quả dương tính với chất ma túy, tạm giữ của H3 01 (một) xe mô tô biển số đăng ký 97F1-8279 kèm chìa khóa xe và 01 (một) điện thoại di động bàn phím bấm nhãn hiệu itel, Trần Duy H3 trình bày: Chiều ngày 01/02/2023, H3 điều khiển xe mô tô trên đi từ nhà thuộc thôn B, xã H đến khu chợ thuộc thôn N, xã H tìm mua ma túy để sử dụng cho bản thân thì gặp H, hai người có nói chuyện với nhau đi tìm mua ma túy để sử dụng, nhưng H không đưa tiền cho H3, không nhờ H3 mua ma túy hộ, rồi H3 mượn xe mô tô biển số đăng ký 97F6-0898 H đi thì H đồng ý, còn H đi xe mô tô biển số đăng ký 97F1-8279 của H3. H3 điều khiển xe mô tô đi tìm mua với một người đàn ông (không rõ họ tên, địa chỉ) được 01 (một) gói ma túy với số tiền 200.000 đồng tại lề đường Quốc lộ 3 thuộc thôn N, xã H, sau đó đã tự sử dụng hết số ma túy này. Sau đó H3 quay về, khi đang trên đường về thì nhận được cuộc gọi điện thoại của H, khi đến khu vực đường xuống Trạm y tế xã H hai người gặp nhau và hai người tiếp tục điều khiển xe đi về nhà. Cơ quan điều tra đã tiến hành đối chất giữa Lý Văn H và Trần Duy H3, tuy nhiên H3 không thừa nhận được mua ma túy hộ H và H không đưa tiền cho H3.
Tại bản cáo trạng số 15/CT-VKSNS, ngày 16 tháng 5 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện N đã truy tố bị cáo Lý Văn H về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Tại phiên tòa:
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Ngân Sơn giữ nguyên quan điểm truy tố. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lý Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị xử lý bị cáo như sau:
- Về trách nhiệm hình sự: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 38, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) xử phạt bị cáo từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam 01/02/2023.
- Hình phạt bổ sung: Không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
- Về xử lý vật chứng trong vụ án: Áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Tịch thu tiêu hủy: Số ma túy (Heroine) hoàn lại sau khi giám định, phong bì, bao gói cũ, túi nilon, giấy gói cũ và phong bì niêm phong cũ có trong các phong bì niêm phong ký hiệu T34, B2.
Tịch thu hóa giá sung quỹ Nhà nước: 01 (một) điện thoại di động có trong phong bì ký hiệu Đ1.
Trả lại cho bị cáo: 01 (một) điện thoại di động Nokia có trong phong bì ký hiệu M3; Trả lại cho ông Trần Văn T: 01 (một) xe mô tô biển số đăng ký: 97F1 -8279; Trả lại cho bà Nguyễn Thị H2: 01 (một) xe mô tô biển số đăng ký: 97F6 -0898; Trả lại cho anh Trần Duy H3 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Itel.
- Về án phí: Đề nghị miễn án phí cho bị cáo.
Bị cáo Lý Văn H khai nhận hành vi của mình đúng như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện N đã truy tố và nhất trí với quan điểm luận tội của Kiểm sát viên; Bị cáo không có ý kiến tranh luận, bào chữa hay khiếu nại gì. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có tranh luận gì. Lời sau cùng bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi và quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện N, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, những người tham gia tố tụng không có khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều đúng quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa, 02 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt không lý do. Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, đại diện Viện kiểm sát đề nghị tiếp tục xét xử. Xét thấy những người này đã có lời khai trong hồ sơ vụ án, sự vắng mặt của họ không gây trở ngại cho việc xét xử nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt là phù hợp quy định tại Điều 292 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
[2] Về tình tiết định tội, định khung hình phạt Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận: Do nghiện ma túy nên ngày 01/02/2023, bị cáo đã có hành vi tàng trữ trái phép 05 (năm) gói nhỏ ma túy (Heroine) có tổng khối lượng 0,30 gam (không phẩy ba không gam) mục đích sử dụng cho bản thân và đã bị tổ công tác Công an huyện N, tỉnh Bắc Kạn phát hiện bắt quả tang, tiến hành thu giữ toàn bộ tang vật.
Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 18 giờ 20 phút, ngày 01/02/2023; biên bản khám xét lập hồi 10 giờ 50 phút, ngày 02/02/2023; biên bản mở đóng niêm phong, cân xác định khối lượng chất bột màu trắng nghi là chất ma túy và gửi mẫu giám định ngày 01/02/2023; phù hợp với Kết luận giám định số 53/KL-KTHS ngày 10/02/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Kạn; phù hợp với các biên bản lấy lời khai, biên bản hỏi cung đối với bị can và phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Qua tranh luận tại phiên tòa không có mâu thuẫn, không làm phát sinh tình tiết, chứng cứ mới.
Vì vậy, có đầy đủ cơ sở kết luận hành vi của Lý Văn H đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015.
Điều luật có nội dung:
1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
…………..
c) Heroine........ có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.” [3] Xét về tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc mua, tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, nhưng do ý thức coi thường pháp luật, không chịu tu dưỡng đạo đức, lối sống, bị cáo đã nghiện ma túy và đã cố ý thực hiện hành vi tàng trữ trái phép 0,30g (không phẩy ba không gam) ma túy (Heroine).
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến sự độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy, gây mất trật tự trị an xã hội, tiếp tay cho các đối tượng hám lời có cơ hội lưu thông, buôn bán ma túy, là nguyên nhân làm lây lan, phát sinh nhiều tệ nạn nguy hiểm xã hội và các hành vi vi phạm pháp luật khác. Viện kiểm sát nhân dân huyện N quyết định truy tố bị cáo trước Tòa án để xét xử về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là đúng quy định của pháp luật, đúng với diễn biến khách quan của vụ án, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.
[4] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Bị cáo nhân thân xấu, có 01 tiền sự, ngày 31/8/2022 bị Công an xã H, huyện N xử phạt vi phạm hành chính, phạt cảnh cáo về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học kinh nghiệm cho bản thân mà tiếp tục phạm tội.
Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của bản thân. Bị cáo có ông nội Lý Văn N được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng nhì, gia đình bị cáo đang thờ cúng liệt sĩ Lý Thị Đ (em gái ruột ông N). Do vậy, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Từ những nhận định trên, căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy cần thiết cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo đồng thời mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung. Đề nghị mức hình phạt của Kiểm sát viên là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[5] Về hình phạt bổ sung: Quá trình điều tra và tại phiên tòa xác định, bị cáo là đối tượng nghiện chất ma túy, không có việc làm, thu nhập ổn định. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[6] Về xử lý vật chứng trong vụ án:
Số ma túy (Heroine) hoàn lại sau khi giám định, phong bì, bao gói cũ, túi nilon, giấy gói cũ và phong bì niêm phong cũ là vật cấm lưu hành và vật không có giá trị nên cần tịch thu tiêu huỷ.
01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia là của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội. Tại phiên tòa, bị cáo có đề nghị xin lại nên cần trả lại cho bị cáo.
01 (một) chiếc điện thoại di động, nhãn hiệu Mastel bị cáo dùng để liên lạc mua ma túy nên cần tịch thu hóa giá sung quỹ Nhà nước.
01 (một) chiếc điện thoại di động bàn phím bấm nhãn hiệu itel của anh Trần Duy H3 không liên quan vụ án nên cần trả lại cho anh Trần Duy H3.
01 (một) xe mô tô biển số đăng ký: 97F1-8279 là tài sản của ông Trần Văn T. Quá trình điều tra xác định ông T không biết chiếc xe mô tô này sử dụng vào hành vi vi phạm pháp luật và đề nghị được lấy lại nên cần trả lại cho ông Trần Văn T.
01 (một) xe mô tô biển số đăng ký: 97F6 -0898 là tài sản của bà Nguyễn Thị H2. Quá trình điều tra và tại phiên tòa xác định bà H2 không biết chiếc xe mô tô này sử dụng vào hành vi vi phạm pháp luật, bà H2 đề nghị được lấy lại chiếc xe nên cần trả lại cho bà Nguyễn Thị H2.
[7] Các vấn đề liên quan trong vụ án Theo lời khai của bị cáo, số ma túy Cơ quan Công an thu giữ ngày 01/02/2023 là của bị cáo nhờ Trần Duy H3 mua hộ. H3 khai nhận không được mua hộ ma túy cho bị cáo ngày 01/02/2023, cơ quan điều tra đã yêu cầu cơ quan viễn thông cung cấp thông tin liên quan đến số thuê bao điện thoại có liên quan nhưng chưa có kết quả. Kiểm tra điện thoại tạm giữ của H3 không xác định được số thuê bao lưu trong máy, không có lịch sử tin nhắn, cuộc gọi đi và đến, đã tiến hành đối chất nhưng chưa làm rõ được hành vi mua hộ ma túy của H3, cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, khi có căn cứ xem xét xử lý sau. Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của H3 ngày 01/02/2023 cơ quan điều tra chuyển tài liệu có liên quan cho Công an xã H lập hồ sơ quản lý theo quy định. Hội đồng xét xử không xem xét.
Đối với người đàn ông (không rõ họ tên, địa chỉ) theo lời khai của bị cáo là người đã bán ma túy (Heroine) cho bị cáo trước ngày bị bắt hai ngày, bị cáo đã tự sử dụng hết và người đàn ông (không rõ họ tên, địa chỉ) theo lời khai của H3 là người đã bán ma túy (Heroine) cho H3 ngày 01/02/2023, H3 tự sử dụng hết, quá trình điều tra không xác định được danh tính, địa chỉ của hai người đàn ông này, Cơ quan điều tra không đủ căn cứ điều tra làm rõ, xử lý. Hội đồng xét xử không xem xét.
[8] Về án phí: Bị cáo là người dân tộc thiểu số, cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn và có đơn xin miễn án phí. Do vậy bị cáo được miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm c, khoản 1 Điều 249, Điều 38, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) Tuyên bố bị cáo Lý Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Xử phạt bị cáo 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam 01/02/2023.
2. Về xử lý vật chứng trong vụ án: Căn cứ khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017), khoản 2, khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
2.1. Tịch thu tiêu hủy:
- 01 (một) phong bì niêm phong, mặt trước phong bì có ghi: “T34; vụ: Lý Văn H (1986) Tàng trữ trái phép chất ma túy.
- 01 (một) phong bì niêm phong, mặt trước phong bì có ghi: Phong bì niêm phong giấy gói cũ, phong bì niêm phong cũ ký hiệu B2.
2.2. Tịch thu hóa giá sung quỹ Nhà nước: 01 (một) điện thoại di động tạm giữ của Lý Văn H ngày 01/02/2023 có trong 01 (một) phong bì niêm phong, mặt trước phong bì có ghi: 01 (một) điện thoại di động tạm giữ của Lý Văn H ngày 01/02/2023 đã kiểm tra và phong bì niêm phong cũ ký hiệu M2 được cho vào phong bì niêm phong ký hiệu Đ1.
2.3. Trả lại cho bị cáo Lý Văn H: 01 (một) điện thoại di động có trong 01 (một) phong bì niêm phong, mặt trước phong bì có ghi: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia tạm giữ của Lý Văn H ngày 01/02/2023 được cho vào phong bì niêm phong ký hiệu M3.
2.4. Trả lại cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Trần Duy H3: 01 (một) điện thoại di động có trong 01 (một) phong bì niêm phong, mặt trước phong bì có ghi: 01 (một) điện thoại di động tạm giữ của Trần Duy H3 và phong bì niêm phong cũ đã ký hiệu H1 được cho vào phong bì niêm phong ký hiệu H2.
2.5. Trả lại cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trần Văn T: 01 (một) xe mô tô có đặc điểm: Nhãn hiệu LONCIN, loại xe: Dream, màu sơn: nâu; Biển số đăng ký: 97F1 -8279, số khung: Không xác định được do bị mờ số, số máy: DU100200100198, tại vị trí mặt nạ trước bị gãy phần vít bu lông, xe cũ đã qua sử dụng kèm theo 01 (một) chìa khóa xe mô tô.
2.6. Trả lại cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị H2: 01 (một) xe mô tô có đặc điểm: Nhãn hiệu HONDA WAVE, màu sơn: đỏ-đen-bạc; Biển số đăng ký: 97F6 -0898, số khung: 09087Y649747, số máy: HC09E5749551, không có gương chiếu hậu, không có hộp xích, ốp sườn hai bên và yên xe bị trầy xước, phía trên cánh yếm bên trái bị vỡ kích thước khoảng 5x7 cm (đã được gắn lại bằng dây kim loại), ốp trụ đèn hậu và xi nhan sau bên trái bị vỡ kích thước khoảng 10x20cm, xe cũ đã qua sử dụng kèm theo 01 (một) chìa khóa xe mô tô.
(Tình trạng, số lượng vật chứng như biên bản giao, nhận đồ vật, tài liệu, vật chứng ngày 22/5/2023 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N và Chi cục Thi hành án dân sự huyện N).
3. Về án phí: Căn cứ Điều 135, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/UBTVQH, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo được miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm.
“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự”.
4. Quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Án xử công khai sơ thẩm, bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn mười năm ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn mười năm ngày kể từ nhận được bản án hoặc niêm yết bản án./.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 16/2023/HS-ST
Số hiệu: | 16/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Ngân Sơn - Bắc Kạn |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 22/06/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về