Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 16/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KỲ ANH, TỈNH HÀ TĨNH

BẢN ÁN 16/2022/HS-ST NGÀY 31/05/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 31 tháng 5 năm 2022, tại điểm cầu trung tâm Tòa án nhân dân huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh và điểm cầu thành phần tại Trại tam giam Công an tỉnh Hà Tĩnh, Toà án nhân dân huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh tiến hành xét xử trực tuyến sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 22/2022/TLST-HS ngày 06 – 5 – 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 17/2022/QĐXXST-HS ngày 16 – 5 – 2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trần Ngọc H, sinh ngày 15 tháng 5 năm 1994, tại xã Kỳ Phú, huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh. Nơi cư trú: thôn Hải Vân, xã D, huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Trình độ học vấn 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Quốc T (đã chết) và bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1969; vợ con: chưa; tiền sự: không; Tiền án: Có 01 tiền án: ngày 20-4-2018, Trần Ngọc H bị Tòa án nhân dân Tòa án nhân dân thị xã Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh xử phạt 42 tháng tù, về tội “Cướp giật tài sản” theo Bản án sơ thẩm số 11/2018/HSST, đã chấp hành xong hình phạt nhưng chưa được xóa án tích. biện pháp ngăn chặn: Bị cáo bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Kỳ Anh tạm giữ, tạm giam từ ngày 24-12-2021 đến nay tại trại Tạm giam Công an tỉnh Hà Tĩnh.

(bị cáo có mặt tại điểm cầu thành phần trại tạm giam Công an tỉnh )

2. Những người tham gia tố tụng:

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Trần Văn D; sinh ngày: 01 tháng 2 năm 1996; nơi cư trú: Thôn K, xã Kỳ Giang, huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh.; Nghề nghiệp: Lao động tự do (vắng mặt)

2. Chị Trần Thị C; sinh ngày: 06 tháng 2 năm 1996; nơi cư trú: Thôn K, xã Kỳ Giang, huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh; Nghề nghiệp: Lao động tự do (vắng mặt)

3. Anh Lê Công T; sinh ngày: 06 tháng 6 năm 1996; nơi cư trú: Thôn Đ, xã Kỳ Giang, huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh; Nghề nghiệp: Lao động tự do (vắng mặt)

4. Anh Nguyễn Văn C; sinh ngày: 10 tháng 11 năm 1976; nơi cư trú: Thôn G, xã Kỳ Giang, huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh Nghề nghiệp: Lao động tự do (có mặt)

5. Ông Phạm Văn N; sinh ngày: 09 tháng 11 năm 1964; nơi cư trú: Thôn Đ, xã D, huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh; Nghề nghiệp: Lao động tự do (có mặt)

6. Chị Hoàng Thị N; sinh ngày: 02 tháng 9 năm 2000; nơi cư trú: Thôn T, xã T, huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh.; Nghề nghiệp: Lao động tự do (vắng mặt)

7. Bà Võ Thị V; sinh ngày: 4 tháng 5 năm 1979; nơi cư trú: Thôn Đ, xã D, huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh; Nghề nghiệp: Lao động tự do (có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do nghiện ma túy và biết được số điện thoại 0986403*** của một nam thanh niên tên T (ở xã Kỳ Khang, huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh) có ma túy bán nên vào khoảng 10 giờ 30 ngày 24/12/2021, Trần Ngọc H sử dụng điện thoại di động nhãn hiệu Iphone Xs, màu vàng đồng (điện thoại của chị Trần Thị C, sinh năm 1989, trú tại thôn Hợp Tiến, xã Kỳ Bắc, huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh) gắn sim số 0914580*** gọi vào số điện thoại 0986403*** của nam thanh niên tên T (Chiên) ở xã Kỳ Khang, huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh để hỏi mua 3.000.000 đồng ma túy thì được người này đồng ý. Sau khi gọi hỏi mua được ma túy, Trần Ngọc H nói với Trần Văn D “cho mượn xe ra đây có tí việc” được D đồng ý, Trần Ngọc H một mình điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda loại Dream, màu nâu biển kiểm soát 38K1-105.** (xe thuộc quyền sở hữu của anh Lê Công T, sinh 1996, trú tại thôn Đ, xã Kỳ Giang, huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh) đến quán cà phê Phố Núi (thuộc địa phận xã D, huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh) để mua ma túy. Khi đến quán cà phê, Trần Ngọc H dựng xe ở ngoài rồi đi thẳng ra phía sau quán thì thấy T đã ngồi đợi sẵn ở đó, Trần Ngọc H đi đến vị trí T ngồi lấy ra số tiền 3.000.000 đồng mang theo đưa cho T. Đưa tiền xong T chỉ về phía gốc cây gần đó có một vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng, biết bên trong vỏ bao thuốc lá có ma túy nên Trần Ngọc H đi đến nhặt lên và cất vào túi quần bò phía trước bên phải mình đang mặc trên người để đi ra về. Khi đến quầy lễ tân quán cà phê thì bị công an huyện Kỳ anh bắt quả tang.

Tại bản kết luận giám định số 33 ngày 27/12/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Tĩnh kết luận chất tinh thể rắn màu trắng đựng trong túi ni lông trong suốt là ma túy, có khối lượng 5,0218 gam Methamphetamine.

Methamphetamine là chất ma túy nằm trong Danh mục II.C, STT 323, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ;

Về vật chứng đã thu giữ:

- 5,0218 gam ma túy Methamphetamine được đựng trong 01 túi ni lông trong suốt;

- 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng;

- 01 chiếc xe mô tô biển kiểm soát 38K1-105.** (đã qua sử dụng)

- 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone Xs, màu vàng đồng (đã qua sử dụng).

Quá trình điều tra cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu 01 chiếc xe mô tô biểm kiểm soát: 38K1-105.** và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone Xs, màu vàng đồng.

Các vật chứng còn lại được chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh để xử lý theo quy định của pháp luật.

Tại bản Cáo trạng số 24/CT-VKSKA ngày 05 tháng 5 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh đã truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh để xét xử Trần Ngọc H về tội“Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm g, o khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, trong phần tranh luận vị đại diện Viện kiểm sát sau khi phân tích, đánh giá các chứng cứ tiếp tục khẳng định nội dung vụ án như Cáo trạng đã kết luận, giữ nguyên quyết định truy tố, đồng thời đề nghị:

Tuyên buộc bị cáo Trần Ngọc H phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

- Về hình phạt chính:

- Áp dụng điểm g, o khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Trần Ngọc H từ 06 đến 07 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ tạm giam ( 24/12/2021).

- Áp dụng các điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự, điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy: 4,9342 gam ma túy Methamphetamine được đựng trong 01 túi ni lông trong suốt và 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng;

- Áp dụng Khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 6, điểm a Khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 – 12 – 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội và Danh mục mức án phí, lệ phí Tòa án kèm theo buộc bị cáo Trần Ngọc H phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Trần Ngọc H tranh luận thừa nhận hành vi và tội phạm của mình, xin giảm nhẹ vì lý do bản thân có bố đẻ là người có công với cách mạng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan CSĐT Công an huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Kỳ Anh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa người tham gia tố tụng không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về tội danh: Tại phiên tòa, bị cáo Trần Ngọc H khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung cáo trạng số 24/CTr-VKS ngày 05 tháng 5 năm 2022 mà Viện kiểm sát nhân dân huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh đã truy tố. Xét lời khai nhận tội của bị cáo cơ bản phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng vụ án, phù hợp với kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ được xét hỏi công khai tại phiên tòa. Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận: Vào ngày 24 tháng 12 năm 2022, Trần Ngọc H đã có hành vi tàng trữ trái phép 5,0218 gam ma túy Methamphetamine tại túi quần bò phía trước mà Hồng đang mặc nhằm mục đích sử dụng, đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” quy định tại Điều 249 Bộ luật Hình sự

[3]. Về hình phạt: Khối lượng ma túy mà Trần Ngọc H tàng trữ và thu giữ được là 5,0218 gam được quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Quá trình điều tra phát hiện Trần Ngọc H đã có tiền án (chưa được xoá án tích) về tội Cướp giật tài sản (có khung hình phạt cao nhất là 07 đến 15 năm tù), hành vi phạm tội lần này của Trần Ngọc H có khung hình phạt từ 05 đến 10 năm tù, do đó ngoài tình tiết định khung được quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự thì Trần Ngọc H còn phải chịu thêm tình tiết định khung Tái phạm nguy hiểm được quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tuy nhiên, sau khi bị bắt Trần Ngọc H đã thành khẩn khai báo, bị cáo có bố đẻ là người có công với cách mạng, Bị cáo có đơn hoàn cảnh gia đình khó khăn, do UBND xã D, huyện Kỳ Anh xác nhận. Đây là các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, do đó cũng cần xem xét giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo, tuy nhiên dù xem xét như thế nào thì cũng cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian dài để bị cáo có thời gian cải tạo để trở thành người có ích cho gia đình và xã hội. Trong phần luận tội, vị đại diện Viện kiểm sát đề nghị xử phạt Trần Ngọc H từ 6 đến 7 năm tù. Tuy nhiện, hội đồng xét xử xét thấy trong vụ án này tang số mà bị cáo Hồng tàng trữ ma túy là đầu khung của mức hình phạt. Ngoài ra bị cáo còn bị thêm 1 tình tiết tăng nặng dịnh khung là tái phạm nghuy hiểm. Nhưng trong vụ án này, bị cáo thành khẩn khai báo, bố là người có công với các mạng, gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn. Vì vậy Hội đồng xét xử sau khi cân nhắc các tình tiết tặng nặng giảm nhẹ của bị cáo xử phạt bị cáo Hồng 5 năm 9 tháng là tương xứng với tội phạm đã phạm phải, tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo.

[4]. Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”, do đó, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa thấy rằng bị cáo không có việc làm ổn định, thu nhập bấp bênh, điều kiện kinh tế còn khó khăn. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5]. Về vật chứng: 5,0218 gam ma túy Methamphetamine và 01 bao thuốc lá Thăng Long màu vàng thu giữ của Trần Ngọc H hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kỳ Anh là các vật chứng của vụ án, là các vật cấm tàng trữ nên cần phải tịch thu tiêu huỷ.

[6]. Đối với người thanh niên tên T (Chiên) ở xã Kỳ Khang, huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh đã bán ma tuý cho Hồng, quá trình điều tra truy tố, cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh làm rõ nhưng T không có mặt tại địa phương nên Cơ quan Cảnh sát điều tra tiếp tục điều tra làm rõ để xử lý theo đúng quy định pháp luật.

[7]. Đối với số điện thoại 0986403*** mà bị cáo Trần Ngọc H đã gọi đến để mua ma túy, quá trình điều tra xác định số điện thoại 0986403*** đăng ký tên chị Nguyễn Thị N, sinh năm 2000 trú tại thôn T, xã T, huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh, nhưng chị Nguyễn Thị N trình bày không đăng ký, không biết số điện thoại này cũng như không cho ai mượn giấy tờ tùy thân để đăng ký, vì vậy không đủ căn cứ để xử lý.

[8]. Đối với anh Lê Công T chủ sỡ hữu xe mô tô biển kiểm soát: 38K1- xxxxx và Trần Văn D là người đã cho Trần Ngọc H mượn xe mô tô để đi mua ma túy về sử dụng, nhưng khi cho Trần Ngọc H mượn xe thì anh T, anh D không biết Trần Ngọc H đi đâu nên không có căn cứ để xem xét trách nhiệm hình sự đối với Lê Công T và Trần Văn D. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Kỳ Anh đã trả lại chiếc xe này cho chủ sở hữu là đúng quy định.

[9]. Đối với chị Trần Thị C, đã cho bị cáo Trần Ngọc H mượn điện thoại di động nhãn hiệu Iphone Xs, màu vàng đồng sử dụng để liên hệ mua ma túy. Tuy nhiên chị Châu không biết việc bị cáo Trần Ngọc H sử dụng tài sản thuộc sở hữu của mình để liên hệ mua ma túy sử dụng nên không có căn kết luận về tài sản liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo, do đó Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Kỳ Anh đã trả lại chiếc điện thoại trên cho chủ sở hữu là đúng quy định.

[10]. Về án phí: Bị cáo Trần Ngọc H phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 6, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 – 12 – 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội và Danh mục mức án phí, lệ phí Tòa án kèm theo.

[11]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo Trần Ngọc H, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo theo quy định tại Điều 331, khoản 1 Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ:

Điểm g, o khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; các điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 136, Điều 331, khoản 1 Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 6, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 – 12 – 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Danh mục mức án phí, lệ phí Tòa án kèm theo;

Tuyên bố: bị cáo Trần Ngọc H phạm tội“Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Xử phạt bị cáo Trần Ngọc H 5 năm 9 tháng, thời hạn tù tính từ ngày 24/12/2021..

- Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì thư bên trong có 4,9342gam ma túy là Methamphetamine được đựng trong 01 túi ni lông trong suốt (sau khi đã lấy mẫu 0,0876 ma túy đi giám định) và 01 bao thuốc lá Thăng Long màu vàng.

Đặc điểm và tình trạng vật chứng có tại Biên bản giao nhận vật chứng, giữa Cơ quan điều tra Công an huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh.

- Buộc bị cáo Trần Ngọc H phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Trần Ngọc H có mặt, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn C, ông Phạm Văn N có mặt, được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; những người quyền lợi và nghĩa vụ liên quan chị Trần Thị C, anh Trần Văn D; Anh Lê Công T; Chị Hoàng Thị N; Bà Võ Thị V, vắng mặt, được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

73
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 16/2022/HS-ST

Số hiệu:16/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kỳ Anh - Hà Tĩnh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:31/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về