TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẠI TỪ, TỈNH THÁI NGUYÊN
BẢN ÁN 16/2022/HS-ST NGÀY 30/03/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 30 tháng 3 năm 2022 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm, thụ lý số 11/2022/TLST-HS ngày 04 tháng 3 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 17/2022/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 3 năm 2022 đối với bị cáo:
Nguyễn Thế M; Tên gọi khác: Không, sinh ngày 26/11/1996 tại tỉnh Thái Nguyên. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: TDP T, thị trấn H, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên. Giới tính: Nam. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không. Trình độ văn hóa: 10/12; Nghề nghiệp: Không. Con ông: Nguyễn Thế A (đã chết). Con bà: Nguyễn Thị P. Vợ, con: Chưa có.
Tiền án: 02
- Tại Bản án số 58/2017/HSST ngày 29/9/2017 của Tòa án nhân dân huyện Đại Từ xử phạt M 12 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. Bản án chưa được xóa án tích.
- Tại Bản án số 47/2019/HSST ngày 23/8/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Sông Công, tỉnh Thái Nguyên xử phạt M 21 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. M chấp hành xong hình phạt tù ngày 21/3/2021.
Tiền sự: Không.
Nhân thân: Tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 249/QĐ- XPVPHC ngày 11/11/2016 của Công an huyện Đại Từ xử phạt M 1.500.000 đồng về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy.
Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/11/2021 cho đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam, Công an tỉnh Thái Nguyên. (Có mặt) * Người làm chứng:
1. Anh Lê Ngọc H, sinh năm 1994. (vắng mặt)
Trú tại: Xóm T, xã TT, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên.
2. Anh Nguyễn Huy H1, sinh năm 1995. (vắng mặt)
Trú tại: Xóm ĐM, xã TH, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên.
* Người chứng kiến:
Ông Dương Trung K, sinh năm 1973. (Vắng mặt)
Trú tại: TDP PT, thị trấn H, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 22 giờ 40 phút ngày 11/11/2021, tổ công tác Công an huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên nhận được tin báo của quần chúng nhân dân tại nhà anh Lê Danh Th, sinh năm 1995, trú tại TDP PT, thị trấn H, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên có một số đối tượng tụ tập có biểu hiện phạm tội về ma túy. Khoảng 23 giờ 00 phút, tổ công tác Công an huyện Đại Từ đã tiến hành kiểm tra, xác minh phát hiện tại nhà anh Th có 03 nam thanh niên gồm: Nguyễn Thế M, sinh năm 1996, Lê Ngọc H (sinh năm 1994, trú tại xóm T, xã TT, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên) và Nguyễn Huy H1 (sinh năm 1995, trú tại xóm ĐM, xã TH, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên). Do bản thân M đang tàng trữ trái phép chất ma túy nên đã tự giác giao nộp 03 viên nén màu hồng đựng trong túi nilon màu trắng được quấn băng dính màu đen bên ngoài, M để ở nắp hộp giấy màu trắng trên giường ngủ kê ở phòng khách nhà Thành (M khai là ma túy tổng hợp dạng hồng phiến của M mua về sử dụng cho bản thân). Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng gồm:
- 03 viên nén màu hồng được đựng trong túi nilon màu trắng (được quấn băng dính màu đen bên ngoài). Được niêm phong vào phong bì ký hiệu A).
- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, màu tím than.
- 01 nắp hộp bìa catton màu trắng có kích thước 12x30cm.
Hồi 12 giờ 30 phút ngày 12/11/2021, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đại Từ tiến hành khám xét khẩn cấp người, chỗ ở, địa điểm, phương tiện đối với Nguyễn Thế M. Kết quả khám xét không thu giữ các đồ vật, tài liệu gì.
Hồi 15 giờ 40 phút ngày 12/11/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên phối hợp với Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên đã tiến hành mở niêm phong và cân toàn bộ số chất bột màu trắng trong phong bì ký hiệu A có khối lượng là: 0,294 gam; (được niêm phong vào phong bì ký hiệu A1 gửi giám định theo quy định).
Tại kết luận giám định số 1587/KL-KTHS ngày 19/11/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận: Mẫu chất bột màu trắng trong phong bì ký hiệu A1 gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine có khối lượng thu giữ ban đầu là 0,294gam.
Tại cơ quan điều tra Nguyễn Thế M khai nhận: Bản thân là người nghiện ma túy, khoảng 22 giờ ngày 11/11/2021 M một mình đi bộ từ nhà đến khu vực Ngã ba Bưu điện thuộc Tổ dân phố C1, thị trấn H, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên mục đích tìm mua ma túy tổng hợp để sử dụng cho bản thân. Đến nơi, M gặp một người đàn ông (không biết tên, tuổi, địa chỉ), qua giao dịch và trao đổi M mua của người đàn ông này 03 viên ma túy tổng hợp dạng hồng phiến được đựng trong túi nilon màu trắng, quấn băng dính màu đen bên ngoài với giá 300.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, M đi bộ đến nhà anh Lê Danh Th thì anh Th không có ở nhà mà chỉ có Lê Ngọc H và Nguyễn Huy H1 đang ngồi chơi ở nhà Th. M vào trong nhà anh Thành ngồi nói chuyện với Hưởng và Hải. Đến khoảng 22 giờ 40 phút cùng ngày thì có Tổ công tác, Công an huyện Đại Từ đến yêu cầu kiểm tra. Do biết bản thân đang tàng trữ trái phép chất ma túy trong người nên M đã tự giác khai báo và giao nộp 03 viên ma túy tổng hợp cho Tổ công tác. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng như nêu trên.
Vật chứng của vụ án gồm:
+ 01 phong bì niêm phong ký hiệu A1;
+ 01 phong bì niêm phong ký hiệu A2;
+ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu tím than.
+ 01 nắp hộp bìa catton màu trắng.
Hiện đang được bảo quản tại kho vật chứng của Chi cục thi hành án dân sự huyện Đại Từ chờ xử lý.
Tại bản cáo trạng số 18/CT-VKSĐT, ngày 03/03/2022 Viện kiểm sát nhân dân huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên đã truy tố bị cáo Nguyễn Thế M về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố.
Phần luận tội tại phiên tòa hôm nay, sau khi phân tích, đánh giá tính chất vụ án, mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo. Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Thế M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Áp dụng điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo từ 05 năm 06 tháng đến 06 năm tù. Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.
Vật chứng vụ án: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:
Tịch thu tiêu hủy: Chất ma túy thu của bị cáo và 01 nắp hộp bìa catton do không còn giá trị sử dụng.
Tạm giữ để đảm bảo thi hành án cho bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu tím than.
Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, buộc bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.
Bị cáo không tranh luận gì, chỉ xin Hội đồng xét xử cho bị cáo mức án thấp nhất để bị cáo sớm trở về gia đình, xã hội trong lời nói sau cùng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Quá trình khởi tố vụ án, điều tra, truy tố và xét xử, điều tra viên, kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan, người tiến hành tố tụng thực hiện trong vụ án đảm bảo hợp pháp và đúng quy định của pháp luật.
[2]. Căn cứ lời khai của bị cáo tại phiên tòa, lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, kết luận giám định, lời khai của người làm chứng, người chứng kiến, vật chứng thu giữ và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ xác định: Khoảng 23 giờ 00 phút ngày 11/11/2021 tại nhà anh Lê Danh Th thuộc tổ dân phố PT, thị trấn H, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên. Nguyễn Thế M đang có hành vi tàng trữ 0,294 gam chất ma túy loại Methamphetamine mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị tổ công tác Công an huyện Đại Từ phát hiện, lập biên bản bắt người phạm tội bắt quả tang, thu giữ vật chứng.
Với hành vi nêu trên, bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên truy tố bị cáo Nguyễn Thế M về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.
Nội dung điều luật quy định như sau:
"1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
...
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:
a)...
o) Tái phạm nguy hiểm.
[3]. Xét hành vi phạm tội của bị cáo là rất nghiêm trọng. Bị cáo có đầy đủ năng lực hành vi và năng lực trách nhiệm hình sự. Hành vi của bị cáo đã thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về quản lý và sử dụng các chất ma túy, là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm khác, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy cần phải được xử lý bằng pháp luật hình sự, buộc bị cáo phải cách ly xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo đồng thời răn đe, phòng chống tội phạm chung.
[4]. Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, Hội đồng xét xử thấy:
Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào theo Điều 52 Bộ luật hình sự. Bị cáo là người có nhân thân xấu, năm 2016 bị Công an huyện Đại Từ xử phạt hành chính về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy, 02 lần bị tòa án xét xử về tội Trộm cắp tài sản, đến nay chưa được xóa án tích, bị cáo phạm tội lần này thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm. Do vậy, cần có hình phạt nghiêm khắc đối với bị cáo để cải tạo giáo dục bị cáo, đồng thời răn đe, phòng ngừa chung. Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ chấp nhận. Bị cáo không có tài sản gì, không có thu nhập ổn định nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.
[5]. Vật chứng vụ án:
- Số ma túy còn lại sau giám định thu giữ của bị cáo được niêm phong kí hiệu A1, A2 và 01 nắp hộp bìa catton màu trắng không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.
- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu tím than, qua điều tra và tại phiên tòa xác định là của bị cáo, xét thấy không liên quan đến vụ án cần trả lại cho bị cáo. Tuy nhiên bị cáo phải chịu án phí nên tạm giữ để đảm bảo thi hành án cho bị cáo.
[6] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
[7] Về nguồn gốc ma túy, M khai mua của một người đàn ông không quen biết tại khu vực tam giác thuộc tổ dân phố C1, thị trấn H. Do không xác định được tên, tuổi, địa chỉ của người đàn ông này nên cơ quan cảnh sát điều tra không có căn cứ để xem xét xử lý.
Quá trình điều tra xác định, Lê Ngọc H và Nguyễn Huy H1 không sử dụng trái phép chất ma túy, không biết M tàng trữ trái phép chất ma túy nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đại Từ không xem xét xử lý.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 326 Bộ luật tố tụng hình sự;
Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thế M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
1. Về hình phạt:
- Căn cứ điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Thế M 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/11/2021.
- Áp dụng Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự, quyết định tạm giam bị cáo 45 (bốn mươi lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.
- Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.
2. Vật chứng vụ án: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:
- Tịch thu tiêu hủy:
+ 01 bì niêm phong ký hiệu A1 còn nguyên vẹn, trên mép dán niêm phong có chữ ký của Giám định viên và đóng dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên.
+ 01 phong bì niêm phong ký hiệu A2 còn nguyên vẹn, trên mép dán niêm phong có chữ ký của các thành phần tham gia và đóng 03 hình dấu của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đại Từ.
+ 01 nắp hộp bìa cát tông màu trắng.
- Tạm giữ để đảm bảo thi hành án cho bị cáo Nguyễn Thế M 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, màu tím than.
(Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng ngày 25/3/2022 giữa Công an huyện Đại Từ với Chi cục THADS huyện Đại Từ).
3. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016: Buộc bị cáo Nguyễn Thế M phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí Hình sự sơ thẩm nộp ngân sách Nhà nước.
Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 16/2022/HS-ST
Số hiệu: | 16/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đại Từ - Thái Nguyên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 30/03/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về