Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 160/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỘC CHÂU, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 160/2022/HS-ST NGÀY 14/09/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 14 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 162/2022/TLST-HS ngày 26 tháng 8 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 161/2022/QĐXXST-HS ngày 31 tháng 8 năm 2022 đối với:

Vàng A C, sinh ngày: 15/9/1988 tại huyện V, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: Bản P, xã Đ, huyện M, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hóa (học vấn): 3/12; dân tộc: Mông; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vàng A L - sinh năm: 1963 và bà Mùa Thị M – sinh năm: 1964; bị cáo có vợ là Mùa Thị D - sinh năm: 1989, có 02 con, con lớn sinh năm 2009, con nhỏ sinh năm 2012; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Tại bản án số 177/2016/HSST ngày 26/9/2016 bị Tòa án nhân dân huyện M xử phạt 30 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy, chấp hành xong hình phạt tù ngày 02/5/2018 (đã được xoá án tích); bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 20/6/2022 đến nay; có mặt.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Chị Mùa Thị D, sinh năm: 1989. Nơi cư trú: Bản P, xã Đ, huyện M, tỉnh Sơn La; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 12 giờ 30 phút ngày 20/6/2022, tổ công tác Công an thị trấn N làm nhiệm vụ tại tiểu khu V, thị trấn N, huyện Mộc Châu tiến hành kiểm tra đối với Vàng A C đang điều khiển xe máy BKS 26G1-261.99. Qua kiểm tra, phát hiện Vàng A C đang cất giấu trong người 01 gói nilon màu xanh bên trong đựng 40 viên nén màu hồng trên bề mặt mỗi viên đều có chữ WY nghi là Methamphetamine. Vàng A C khai nhận đó là Methamphetamine của C cất giấu để sử dụng cho bản thân nghiện chất ma túy. Căn cứ hành vi vi phạm của Vàng A C, tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ, niêm phong vật chứng và dẫn giải C đến cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu để điều tra làm rõ.

Ngày 20/6/2022, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu đã tiến hành mở niêm phong, cân tịnh xác định 40 viên nén màu hồng thu giữ của Vàng A C có khối lượng 04 gam, lấy 05 viên có khối lượng 0,5 gam làm mẫu trưng cầu giám định, mẫu có ký hiệu C.

Tại Kết luận giám định số 1076/KL-KTHS ngày 21/6/2022 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu C là ma tuý; Loại Methamphetamine; Khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,5 gam; Tổng khối lượng ma tuý thu giữ là 04 gam; Loại Methamphetamine”.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Vàng A C khai nhận: Bản thân là người nghiện chất ma tuý. Khoảng 20 giờ ngày 19/6/2022, C điều khiển xe máy BKS: 26G1-261.99 đi đến tiểu khu V, thị trấn N, huyện Mộc Châu mục đích tìm mua ma tuý để sử dụng. Khi đi đến nương mận thuộc tiểu khu V, C gặp và hỏi mua được của một người đàn ông dân tộc Mông không quen biết 01 gói nilon màu xanh bên trong đựng 40 viên Methamphetamine với giá 380.000 đồng, C cất giấu gói ma tuý vào trong túi áo khoác bên trái đang mặc rồi điều khiển xe máy đi về nhà. Đến khoảng 12 giờ ngày 20/6/2022, C mặc chiếc áo có cất giấu ma tuý và điều khiển xe máy BKS: 26G1-261.99 đi ra thị trấn N để mua gạo. Khi đi đến tiểu khu V, thị trấn N thì gặp tổ công tác Công an thị trấn N kiểm tra, phát hiện, bắt quả tang.

Đối với chiếc xe máy BKS 26G1-261.99, quá trình điều tra xác định là tài sản chung của Vàng A C và vợ là Mùa Thị D. Việc Vàng A C sử dụng xe máy đi mua ma tuý chị Mùa Thị D hoàn toàn không biết. Ngày 08/8/2022, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu đã giao trả chiếc xe máy trên cho chị Mùa Thị D quản lý, sử dụng.

Đối với người đàn ông dân tộc Mông đã bán ma tuý cho Vàng A C như C đã khai nhận, quá trình điều tra không xác định được lai lịch, địa chỉ nên cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu không có căn cứ để điều tra, làm rõ và xử lý.

Tại phiên tòa bị cáo Vàng A C trình bày ý kiến, giữ nguyên lời khai của mình, không thay đổi, bổ sung thêm nội dung nào làm thay đổi nội dung vụ án. Bị cáo nhận tội như cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát.

Cáo trạng số 128/CT-VKS ngày 25/8/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu truy tố bị can Vàng A C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu giữ nguyên cáo trạng truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Vàng A C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” và áp dụng các căn cứ pháp luật như sau:

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Vàng A C từ 04 năm đến 04 năm 06 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

- Căn cứ điểm c khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1, điểm a, c khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Về vật chứng của vụ án:

Chấp nhận việc cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu đã giao trả chiếc xe máy BKS 26G1-261.99 cho chị Mùa Thị D quản lý, sử dụng.

Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì bên ngoài ghi vật chứng vụ: Vàng A C, bắt ngày 20/6/2022, bên trong đựng mảnh nilon màu xanh, phong bì niêm phong ban đầu và 35 viên nén màu hồng (Methamphetamine) có khối lượng 3,5 gam; 01 phong bì bên ngoài ghi test thử ma túy đối với Vàng A C, SN 1988 ngày 20/6/2022, kết quả: Dương tính.

- Về án phí: Miễn án phí hình sự sơ thẩm đối với bị cáo Vàng A C.

Sau khi Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm xử lý các vấn đề của vụ án. Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan nhất trí với cáo trạng và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.

Lời nói sau cùng: Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an huyện Mộc Châu, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có ý kiến, khiếu nại về hành vi của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Tại phiên tòa bị cáo Vàng A C khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã khai tại cơ quan Điều tra, số ma túy bị cáo bị tổ công tác Công an thị trấn N thu giữ vào ngày 20/6/2022 có nguồn gốc mua được của một người đàn ông dân tộc Mông không quen biết với giá 380.000 đồng, mục đích sử dụng cho bản thân. Lời khai của bị cáo không có nội dung gì thay đổi so với lời khai tại cơ quan Cảnh sát điều tra, bị cáo khẳng định việc khai báo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa ngày hôm nay là hoàn toàn tự nguyện và đúng với hành vi đã thực hiện.

Xét lời khai của bị cáo là hoàn toàn tự nguyện và phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang do tổ công tác Công an thị trấn N lập vào hồi 12 giờ 35 phút ngày 20/6/2022; biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ; biên bản mở niêm phong xác định khối lượng, lấy mẫu giám định, niêm phong lại vật chứng đồ vật, tài liệu bị tạm giữ; bản kết luận giám định số 1076/KL-KTHS ngày 21/6/2022 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu C là ma tuý; Loại Methamphetamine; Khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,5 gam; Tổng khối lượng ma tuý thu giữ là 04 gam; Loại Methamphetamine” nằm trong danh mục II, STT: 323 Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ. Lời khai của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ của Cơ quan điều tra đã thu thập được trong hồ sơ vụ án.

Từ những chứng cứ nêu trên Hội đồng xét xử xét thấy: Bị cáo Vàng A C là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được tác hại của việc tàng trữ, sử dụng ma túy. Nhưng do nghiện chất ma túy nên ngày 20/6/2022 bị cáo Vàng A C đã có hành vi tàng trữ, cất giấu trái phép 04 gam Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng cho bản thân. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự.

Về tình tiết định khung hình phạt: Hành vi của bị cáo Vàng A C không vi phạm các tình tiết định khung tăng nặng khác nên chỉ bị xét xử ở điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Xét tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền của Nhà nước về quản lý các chất ma tuý, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Bị cáo được hưởng một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đó là trong quá trình điều tra và tại phiên tòa ngày hôm nay bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự cần xem xét áp dụng đối với bị cáo.

Về nhân thân của bị cáo: Bị cáo là người có nhân thân xấu, là đối tượng nghiện chất ma túy. Có 01 tiền án, ngày 26/9/2016 bị Tòa án nhân dân huyện M xử phạt 30 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy (đã được xoá án tích). Sau khi chấp hành án xong trở về địa phương bị cáo không lấy đó làm bài học để tu dưỡng rèn luyện bản thân mà tiếp tục có hành vi phạm tội.

Từ những đánh giá nêu trên Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng cải tạo, giáo dục đối với bị cáo, đồng thời mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự quy định người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng) đến 500.000.000 đồng (Năm trăm triệu đồng). Hội đồng xét xử xét thấy quá trình điều tra và thẩm vấn công khai tại phiên tòa thấy rằng bị cáo không có tài sản gì có giá trị, là người nghiện ma tuý, gia đình thuộc hộ nghèo, không có điều kiện thi hành hình phạt bổ sung, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về vật chứng, xử lý vật chứng:

Đối với chiếc xe máy BKS 26G1-261.99 bị cáo Vàng A C sử dụng làm phương tiện đi mua ma tuý. Quá trình điều tra và tại phiên toà xác định chiếc xe máy BKS 26G1-261.99 là tài sản chung của Vàng A C và vợ là Mùa Thị D. Việc Vàng A C sử dụng xe máy đi mua ma tuý chị Mùa Thị D hoàn toàn không biết và không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo. Do đó, ngày 08/8/2022 cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu đã giao trả chiếc xe máy trên cho chị Mùa Thị D quản lý, sử dụng là đúng quy định của pháp luật, cần chấp nhận.

Đối với 01 phong bì bên ngoài ghi vật chứng vụ: Vàng A C, bắt ngày 20/6/2022, bên trong đựng mảnh nilon màu xanh, phong bì niêm phong ban đầu và 35 viên nén màu hồng (Methamphetamine) có khối lượng 3,5 gam; 01 phong bì bên ngoài ghi test thử ma túy đối với Vàng A C, SN 1988 ngày 20/6/2022, kết quả: Dương tính. Xét thấy đây là những vật thuộc loại Nhà nước cấm mua bán, lưu hành, tàng trữ, vật không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

[6] Về các vấn đề khác: Đối với người đàn ông dân tộc Mông đã bán ma túy cho Vàng A C như C khai, quá trình điều tra không xác định được lai lịch, địa chỉ. Do đó, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu không có căn cứ để điều tra, làm rõ và xử lý.

[7] Về án phí: Tại phiên tòa bị cáo Vàng A C có yêu cầu được miễn án phí hình sự sơ thẩm. Xét thấy bị cáo Vàng A C là thuộc hộ nghèo, người dân tộc thiểu số cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn nên cần miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12; khoản 6 Điều 15 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[8] Thời hạn tạm giam còn lại của bị cáo còn dưới 45 ngày, do đó Hội đồng xét xử quyết định tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo cho việc thi hành án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự:

Tuyên bố bị cáo Vàng A C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Vàng A C 04 (Bốn) năm 06 (Sáu) tháng tù.

Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 20/6/2022.

Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

2. Căn cứ điểm c khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1, điểm a, c khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Về vật chứng của vụ án: Chấp nhận việc cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu đã giao trả chiếc xe máy BKS 26G1-261.99 cho chị Mùa Thị D quản lý, sử dụng.

Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì bên ngoài ghi vật chứng vụ: Vàng A C, bắt ngày 20/6/2022, bên trong đựng mảnh nilon màu xanh, phong bì niêm phong ban đầu và 35 viên nén màu hồng (Methamphetamine) có khối lượng 3,5 gam; 01 phong bì bên ngoài ghi test thử ma túy đối với Vàng A C, SN 1988 ngày 20/6/2022, kết quả: Dương tính.

3. Về án phí: Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12; khoản 6 Điều 15 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Miễn án phí hình sự sơ thẩm đối với bị cáo Vàng A C.

Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

52
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 160/2022/HS-ST

Số hiệu:160/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mộc Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về