Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 160/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN H, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 160/2022/HS-ST NGÀY 03/06/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 03 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận H, Thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 138/TLST - HS ngày 16 tháng 5 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 150/2022/QĐXXST - HS ngày 17 tháng 5 năm 2022, đối với bị cáo:

1/ Họ và tên: Quách Văn S, sinh năm 1996; Giới tính: Nam; HKTT: Thôn 1, xã X, huyện N, tỉnh Thanh Hóa; Chỗ ở: Không có nơi ở cố định; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 03/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Mường; Tôn giáo: Không; Con ông Quách Văn Thông, sinh năm 1973, con bà Quách Thị Diệp, sinh năm 1974; Gia đình có 04 anh em, bị cáo là con thứ nhất; Vợ con: Chưa có; Tiền sự; Tiền án: Không; theo Danh chỉ bản số 111 do Công an quận H lập ngày 26/01/2022.

Bắt quả tang ngày 18/01/2022, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 2, Công an Thành phố Hà Nội. Bị cáo có mặt.

2/ Họ và tên: Lê Hữu K, sinh năm 1993; Giới tính: Nam; HKTT: Thôn 5, xã C, huyện N, tỉnh Thanh Hóa; Chỗ ở: Không nơi ở cố định; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 09/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông Lê Hữu T, sinh năm 1958, con bà Lê Thị L, sinh năm 1959; Gia đình có 05 chị em, bị cáo là con thứ tư; Vợ: Hà Thị A, sinh năm 1991; có hai con, con lớn sinh năm 2020 con nhỏ sinh năm 2021; Tiền sự: Không;

Tiền án: Có 01 tiền án; theo Danh chỉ bản số 112 do Công an quận H lập ngày 26/01/2022.

- Năm 2014, Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 18 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản (chưa được xóa án tích).

Bắt quả tang ngày 18/01/2022, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 2, Công an Thành phố Hà Nội. Bị cáo có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

[1] Viện kiểm sát nhân dân quận H, Thành phố Hà Nội truy tố:

Khoảng 22 giờ 45 phút ngày 18/01/2022 tại khu vực trước số 214 đường K, phường Đ. Quận H, Thành phố Hà Nội, tổ công tác Đại đội 2, Tiểu đoàn Cảnh sát cơ động số 2 – Trung đoàn Cảnh sát cơ động Công an thành phố Hà Nội phát hiện bắt quả tang Lê Hữu K và Quách Văn S có hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy. Thu giữ của K 01 túi nilong màu trắng có kích thước 4x6cm bên trong chứa tinh thể màu trắng, K và S đều khai nhận đó là ma túy đá mà K và S góp tiền mua để sử dụng chung. Ngoài ra, cơ quan Công an còn tạm giữ của K 01 điện thoại di động Samsung Galaxy A12 màu đen, tạm giữ của S 01 điện thoại Realme màu xanh và 01 xe máy nhãn hiệu HondaWave BKS: 29K1-337.23.

Ngày 19/01/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an quận H đã ra Quyết định trưng cầu giám định số 136 đối với tang vật thu giữ của Lê Hữu K và Quách Văn S. Bản kết luận giám định số 877/KLGĐ-PC09 ngày 26/01/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội kết luận: Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilong là ma túy loại Methaphetamine, khối lượng 0,808 gam.

Tại cơ quan Công an, Quách Văn S và Lê Hữu K khai nhận: Bản thân Quách Văn S và Lê Hữu K là bạn bè xã hội. Khoảng 21 giờ ngày 18/01/2022, S rủ K đi mua ma túy đi về để cùng sử dụng, K đồng ý. S điều khiển 01 xe máy nhân hiệu Honda Wave màu trắng mang BKS: 29K1-337.23 chở K đi tìm mua ma túy. Khi đi đến khu vực cổng làng Đại Từ, phường Đ, quận H, Hà Nội thì S gặp 01 nam thanh niên không quen biết và mua được 01 gói ma túy đá, với giá 200.000 đồng (trong đó có 100.000 đồng của K với 100.000 đồng của S), S mua ma túy xong thì đưa cho K cầm rồi tiếp tục điều khiển xe máy đi tìm nơi để sử dụng. Khi đi đến trước cửa số nhà 214 K, phường Đ, quận H, Hà Nội thì bị Công an kiểm tra bắt giữ.

Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an quận H đã tiến hành dẫn giải Quách Văn S và Lê Hữu K đến vị trí mua ma túy tại khu vực ngã tư cổng làng Đại Từ, phường Đ, quận H, Hà Nội nhưng không xác định được nam thanh niên đã bán ma túy cho S và K nên không có căn cứ xử lý.

Tiến hành xét nghiệm ma túy đối với Quách Văn S, Hữu K kết quả: Dương tính.

Đối với 01 điện thoại di động Samsung Galaxy A12 thu giữ của Lê Hữu K và 01 chiếc điện thoại di động Realme màu xanh thu giữ của Quách Văn S, quá trình điều tra xác định đây là tài sản cá nhân của S và K, kiểm tra trong điện thoại đều không phát hiện thu giữ thông tin gì liên quan đến vụ án.

Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an quận H đã kiểm tra chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave màu trắng BKS; 29K1–337.23, số khung: R2HHC09046Y271814, số máy: HC09E-627.1612 thu giữ của Quách Văn S không phát hiện thu giữ đồ vật, tài liệu gì liên quan đến vụ án. Cơ quan điều tra đã điều tra xác định chủ sở hữu của chiếc xe máy trên là anh Lò Văn Tiến (SN:

1995; trú tại: Bản Co Khết, xã Liệp Tè, huyện Thuận Châu, Sơn La). Lời khai anh Lò Văn Tiến thể hiện: ngày 18/01/2022, anh Tiến cho Quách Văn S mượn chiếc xe máy trên để sử dụng làm phương tiện đi lại, việc S dùng chiếc xe máy để đi mua ma túy anh Tiến hoàn toàn không biết. Lời khai của anh Tiến phù hợp với lời khai của Quách Văn S. Cơ quan điều tra đã trao trả lại chiếc xe máy trên cho anh Lò Văn Tiến.

Tại bản cáo trạng số 131/CT-VKS-HM, ngày 06/5/2022 của Viện kiểm sát nhân dân quận H, Thành phố Hà Nội truy tố bị cáo Lê Hữu K và Quách Văn S về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017;

[2] Tại phiên tòa:

Bị cáo Lê Hữu K và Quách Văn S thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội và thừa nhận Viện kiểm sát nhân dân quận H, Thành phố Hà Nội truy tố các bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Các bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt để sớm được trở về gia đình và hòa nhập xã hội.

Kiểm sát viên nắm quyền công tố tại phiên tòa, giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như Bản cáo trạng. Sau khi phân tích, đánh giá tích chất, mức độ của hành vi phạm tội; nhân thân của các bị cáo, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 và điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017; khoản 3 Điều 106, 136, 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đối với các bị cáo. Riêng bị cáo Lê Hữu K áp dụng thêm điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

- Xử phạt: bị cáo Lê Hữu K từ 22 tháng đến 26 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy;

- Xử phạt: bị cáo Quách Văn S từ 20 tháng đến 24 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy;

Tịch thu tiêu hủy: 01 bao niêm phong bên trong chứa 0,808gam Methamphetamine.

Trả bị cáo Lê Hữu K 01 điện thoại di động Samsung Galaxy A12.

Trả bị cáo Quách Văn S 01 chiếc điện thoại di động Realme màu xanh.

[3] Phần tranh luận tại phiên tòa: Các bị cáo thừa nhận Kiểm sát viên luận tội đối với hành vi phạm tội của mình là đúng người đúng tội, đúng pháp luật, nên không tranh luận với Kiểm sát viên.

[4] Lời nói sau cùng của bị cáo: Các bị cáo rất hối hận về hành vi phạm tội của mình, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận H, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận H và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại. Do đó, các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của các Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét về hành vi vi phạm bị truy tố:

Tại biên bản bắt người phạm tội quả tang; Biên bản thu giữ, niêm phong và mở niêm phong tang vật; Quyết định trưng cầu giám định xác định khối lượng, loại ma túy của Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an quận H, Thành phố Hà Nội; Kết luận giám định số 877/KLGĐ-PC09 ngày 26/01/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hà Nội, cùng các tài liệu chứng cứ khác thể hiện:

Khoảng 22 giờ 45 phút ngày 18/01/2022; tại khu vực trước số 214 đường K, phường Đ, quận H, Thành phố Hà Nội; Lê Hữu K và Quách Văn S đã có hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy loại Methamphetamine, có khối lượng 0,808gam. Nguồn gốc số ma túy này do các bị cáo mua tại khu vực cổng làng Đại Từ, phường Đ, quận H, Hà Nội của một nam thanh niên không quen biết với giá 200.000 đồng (trong đó S góp 100.000 đồng, K góp 100.000 đồng) mục đích các bị cáo mua số ma túy trên về để sử dụng cho bản thân vì bị cáo là con nghiện; sau khi mua được ma túy S đưa cho K cầm rồi tiếp tục điều khiển xe máy đi tìm nơi để sử dụng. Khi đi đến trước cửa số nhà 214 K, phường Đ, quận H, Hà Nội thì bị Công an kiểm tra bắt giữ và lập biên bản phạm tội quả tang. Hành vi nêu trên của bị cáo Lê Hữu K, Quách Văn S đã đủ yếu tố cấu thành “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Các bị cáo là người trưởng thành, có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, do đó Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận H, Thành phố Hà Nội truy tố bị cáo về tội danh và điều luật đã viện dẫn là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội; nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Xét hành vi phạm tội của bị cáo có tính chất, mức độ rất nguy hiểm cho xã hội. Xác định hành vi của bị cáo là tội phạm nghiêm trọng; ma túy bị cáo Quách Văn S và Lê Hữu K tàng trữ loại Methamphetamine có khối lượng là 0,808gam. Hành vi đó đã xâm phạm chính sách độc quyền của Nhà nước về quản lý các chất ma tuý; gây ảnh hưởng đến sức khoẻ của con người; đồng thời là nguyên nhân dẫn đến những hành vi vi phạm pháp luật khác, gây ảnh hưởng xấu tới tình hình trật tự trị an xã hội. Do vậy, cần phải xử lý các bị cáo nghiêm bằng pháp luật hình sự và áp dụng mức hình phạt tù có thời hạn, tương xứng đối với hành vi phạm tội của các bị cáo, như vậy mới có tác dụng giáo dục riêng đối với các bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

Nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo: Bị cáo Quách Văn S trước khi phạm tội lần này chưa có tiền án, tiền sự. Bị cáo Lê Hữu K có 01 tiền án chưa được xóa án tích nên lần phạm tội này là tái phạm cần áp dụng điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS, Tình tiết giảm nhẹ: Xét trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Quách Văn S, Lê Hữu K đều nhận tội và thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Về vị trí, vai trò: Trong vụ án này bị cáo S là người khởi xướng việc mua ma túy về để sử dụng chung và cùng góp tiền mua ma túy, tuy nhiên các bị cáo chỉ là đồng phạm giản đơn, do vậy các bị cáo đều có vị trí vai trò như nhau trong vụ án theo khoản 1 Điều 17 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Đối với tội phạm về ma túy, ngoài hình phạt chính các bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Hội đồng xét xử, xét các bị cáo không có công việc và thu nhập ổn định, không có tài sản riêng nên không có khả năng thi hành hình phạt bổ sung, do vậy không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với các bị cáo.

[4] Biện pháp tư pháp: Đối với 01 bao niêm phong bên trong chứa 0,808gam Methamphetamine là tang vật của vụ án; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A12 màu đen, Imei1: 352884791049183, Imei2 : 353649451049180 thu giữ của Lê Hữu K và 01 điện thoại Realme màu xanh, Imei1: 867864056325831, Imei2: 867864056325823 thu giữ của Quách Văn S không liên quan đến hành vi phạm tội; do vậy khi giải quyết cần căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xử lý. Do đó, Hội đồng xét xử nhận định, cần:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 bao niêm phong bên trong chứa 0,808gam Methamphetamine;

- Trả lại Lê Hữu K: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A12 màu đen, Imei1 : 352884791049183, Imei2 : 353649451049180;

- Trả lại Quách Văn S: 01 điện thoại Realme màu xanh, Imei1 :

867864056325831, Imei2 : 867864056325823;

[5] Các vấn đề khác: Đối với đối tượng nam thanh niên đã bán ma túy cho các bị cáo, quá trình điều tra Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận H không xác định được danh tính, địa chỉ cụ thể nên không có căn cứ để xử lý là có cơ sở.

Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave màu trắng BKS; 29K1 – 337.23, số khung: R2HHC09046Y271814, số máy: HC09E-627.1612 thu giữ của Quách Văn S, Cơ quan điều tra đã điều tra xác định chủ sở hữu của chiếc xe máy trên là anh Lò Văn Tiến, sinh năm 1995; trú tại: Bản Co Khết, xã Liệp Tè, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La. Anh anh Tiến cho Quách Văn S mượn chiếc xe máy trên để sử dụng làm phương tiện đi lại, việc S dùng chiếc xe máy để đi mua ma túy anh Tiến hoàn toàn không biết nên Cơ quan điều tra đã trao trả lại chiếc xe máy trên cho anh Lò Văn Tiến là có căn cứ.

[6] Án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7] Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm đ khoản 1 Điều 32; Điều 38 và điểm c khoản 1 Điều 47; khoản 1 Điều 17 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 đối với Quách Văn S;

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm đ khoản 1 Điều 32; Điều 38 và điểm c khoản 1 Điều 47; khoản 1 Điều 17 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 đối với Lê Hữu K;

Căn cứ vào khoản 3 Điều 106, 136, 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

Căn cứ vào Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Xử phạt:

- Bị cáo Quách Văn S 24 (Hai mươi bốn) tháng tù về “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù, tính từ ngày bắt quả tang ngày 18/01/2022.

- Bị cáo Lê Hữu K 26 (Hai mươi sáu) tháng tù về “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù, tính từ ngày bắt quả tang ngày 18/01/2022.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

2. Các vấn đề khác: Không xét.

3. Biện pháp tư pháp:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 bao niêm phong bên trong chứa 0,808gam Methamphetamine;

- Trả lại Lê Hữu K: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A12 màu đen, Imei1 : 352884791049183, Imei2 : 353649451049180;

- Trả lại Quách Văn S: 01 điện thoại Realme màu xanh, Imei1 :

867864056325831, Imei2 : 867864056325823;

Toàn bộ vật chứng nêu trên, đang lưu giữ tại kho vật chứng Chi cục Thi hành án dân sự quận H, Thành phố Hà Nội, theo Phiếu nhập kho vật chứng, tài sản số NK2022-0189, ngày 09/5/2022.

4. Về án phí: Các bị cáo Quách Văn S, Lê Hữu K mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

61
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 160/2022/HS-ST

Số hiệu:160/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hoàng Mai - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về