Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 160/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 160/2021/HS-ST NGÀY 08/12/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 08 tháng 12 năm 2021, tại phòng xét xử trụ sở Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 138/2021/TLST-HS ngày 28 tháng 7 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 138/2021/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 8 năm 2021 và Thông báo về việc thay đổi thời gian mở phiên tòa số 176/TB-TA đối với bị cáo:

Nguyễn Tưng B, sinh ngày 14 tháng 4 năm 1994 tại L. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp K, xã T, huyện T, tỉnh Long An. Tạm trú: Ấp P, xã P, huyện N, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: kinh; giới tính: Nam, tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn K và bà Võ Thị A; bị cáo chưa có vợ, con; bị bắt giam, giữ từ ngày 20 tháng 4 năm 2021.

Tiền án: Ngày 16/5/2019, bị Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đồng Nai xử phạt 01 năm tù về tội tàng trử trái phép chất ma túy, ngày 20/12/2019 đã chấp hành xong bản án.

Tiền sự: Không có Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

Bà Võ Thị Ánh, sinh năm 1966 Nơi cư trú: Ấp P, xã P, huyện N, tỉnh Đồng Nai.

(Bị cáo có mặt tại phiên tòa, bà A vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Tưng B là đối tượng nghiện ma túy nên khoảng 17 giờ 30 phút ngày 13/4/2021, Nguyễn Tưng B gọi điện thoại cho một nam thanh niên tên L (không rõ nhân thân) để hỏi mua ma túy với giá 400.000 đồng. L đồng ý và hẹn Nguyễn Tưng B đến đường hẻm gần quán bánh canh cá ở ấp Đ, xã P, huyện N, tỉnh Đồng Nai để giao nhận ma túy. Sau đó, B điều khiển xe mô tô biển kiểm soát số: 62H8-xxxx của bà Võ Thị A, ngụ tại ấp P, xã P, huyện N, tỉnh Đồng Nai là mẹ ruột của B đến địa điểm trên để lấy ma túy và đem về giấu ở bụi cây tại đường 4B, khu công nghiệp N, huyện N, tỉnh Đồng Nai. Đến ngày 15/4/2021, B lấy một ít ra sử dụng, số ma túy còn lại B cất giấu vào túi xách vải màu nâu rồi để lại vào trong bụi cây. Đến 22 giờ ngày 20/4/2021, B đến bụi cây lấy ma túy trong túi xách ra để chuẩn bị sử dụng thì bị Công an đồn khu công nghiệp N phối hợp với Công an xã P, huyện N bắt quả tang, thu giữ trong chiếc túi xách bằng vải của B có 01 (một) gói nylon hàn kín đựng tinh thể màu trắng.Tổ công tác đưa B cùng tang vật về trụ sở Công an Đồn khu công nghiệp N lập biên bản bắt người phạm tội quả tang về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy và chuyển hồ sơ đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N để xử lý theo thẩm quyền.

- Tại Bản kết luận giám định số: 828/KLGĐ-PC09 ngày 26/4/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai kết luận 01 gói nylon hàn kín bên trong chứa các hạt tinh thể rắn màu trắng có chữ ký của Nguyễn Tưng B, Phạm Đình K là ma túy có khối lượng 0,27168 gam, loại Methamphetamine. Mẫu sau giám định có khối lượng là 0,23255 gam, loại Methamphetamine.

- Tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo thành khẩn khai báo ăn năn hối cải về hành vi của mình.

- Tình tiết tăng nặng: Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp tái phạm.

- Tang vật của vụ án gồm:

+ 01 chiếc túi xách bằng vải bên trong chứa 01 gói nylon hàn kín đựng tinh thể màu trắng là ma túy có khối lượng 0,27168 gam, loại Methamphetamine; 01 ống thủy tinh (nỏ), 01 bật lửa là dụng cụ sử dụng ma túy; 01cân điện tử (cân tiểu ly).

+ 01 xe gắn máy nhãn hiệu Wave, màu đỏ, Biển kiểm soát: 62H8-xxxx đã trả lại cho chủ sở hữu là bà Võ Thị A.

Quá trình điều tra bị cáo Nguyễn Tưng B đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ đã thu thập trong hồ sơ vụ án.

Tại cáo trạng số 125/CT-VKS.HS ngày 22/7/2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện N truy tố bị cáo Nguyễn Tưng B về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án: Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N vẫn giữ nguyên quyết định truy tố như cáo trạng và đề nghị :

Về trách nhiệm hình sự: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật Hình sự 2015 xử phạt bị cáo Nguyễn Tưng B từ 01năm 08 tháng đến 02 năm tù.

Về vật chứng của vụ án và án phí: Đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo qui định của pháp luật.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện tài liệu, chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện NTrạch, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện N, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp [2] Về trách nhiệm hình sự: Vào khoảng 22 giờ 00 phút, ngày 20/4/2021 Nguyễn Tưng B đã thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy 0,27168gam loại Methamphetamine thì bị Công an phát hiện bắt giữ.

Bị cáo có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, đã thực hiện hoàn thành hành vi phạm tội nên có đủ căn cứ và cơ sở để xác định hành vi của bị cáo Nguyễn Tưng B đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS, có mức hình phạt tù từ 1 năm đến 5 năm tù. Do đó, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện N truy tố là có căn cứ nên Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận.

[3] Về nhân thân, tính chất mức độ của hành vi phạm tội và tình tiết tăng nặng , giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về nhân thân: Bị cáo thuộc trường hợp tái phạm.

Tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do bị cáo thực hiện là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến các quy định của nhà nước về quản lý các chất ma túy và làm ảnh hưởng đến trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo biết việc tàng trữ sử dụng chất ma túy bị pháp luật nghiêm cấm nhưng vì nghiện ma túy nên các bị cáo đã mua ma túy về tàng trữ sử dụng; qua đó cho thấy các bị cáo không có ý thức chấp hành pháp luật. Hiện nay, tệ nạn mua bán, tàng trữ sử dụng ma túy diễn ra hết sức phức tạp, lôi kéo nhiều người vào con đường nghiện ngập là nguyên nhân làm phát sinh các tội phạm khác, nên cần áp dụng mức hình phạt nghiêm mới có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung cho xã hội.

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo tái phạm thuộc trường hợp quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015.

Riêng đối tượng tên L là người bán ma túy cho B về sử dụng, do chưa xác định được nhân thân, lai lịch nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện N tách ra tiếp tục điều tra, xác minh, làm rõ xử lý sau là phù hợp với quy định của pháp luật.

[4] Về xử lý vật chứng: Theo quy định tại Điều 46, 47 BLHS.

Tịch thu tiêu hủy mẫu vật còn lại sau giám định có khối lượng: 0,23255 gam được niêm phong trong phong bì có ký hiệu số: 828/KLGĐ-PC09 ngày 28/4/2021, có dấu niêm phong Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai; 01 túi xách bằng vải; 01 nỏ thủy tinh; 01 bật lửa; 01 cân điện tử là công cụ dùng vào việc phạm tội.

- Tịch thu sung công quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động Nokia là phương tiện B dùng vào việc phạm tội.

01 xe mô tô biển kiểm soát 62H8-xxxx là tài sản của bà Võ Thị A, bà A không biết B dùng vào việc phạm tội, Cơ quan cảnh sát điều trả đã trả cho bà A phù hợp quy định pháp luật.

Về án phí: Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2013/UBTVQH ngày 30 tháng 12 năm 2016, bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng.

Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát phù hợp với nhận định trên nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Điều 326, Điều 327 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Tưng B phạm tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy ” Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự 2015;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Tưng B 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 20/4/2021.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 46, 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự Tịch thu tiêu hủy mẫu vật còn lại sau giám định có khối lượng: 0,23255 gam được niêm phong trong phong bì có ký hiệu số: 828/KLGĐ-PC09 ngày 28/4/2021, có dấu niêm phong Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai; 01 túi xách bằng vải; 01 nỏ thủy tinh; 01 bật lửa; 01 cân điện tử là tang vật, công cụ dùng vào việc phạm tội.

- Tịch thu sung công quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động Nokia màu xám là phương tiện Nguyễn Tưng B dùng vào việc phạm tội.

Hiện vật chứng đang được tạm giữ tại Chi cục thi hành án dân sự huyện N theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 30/7/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện N.

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2013/UBTVQH ngày 30 tháng 12 năm 2016.

Về án phí: Bị cáo Nguyễn Tưng B phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Báo cho bị cáo biết được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hoặc niêm yết hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

144
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 160/2021/HS-ST

Số hiệu:160/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nhơn Trạch - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về