Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 157/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 157/2022/HS-ST NGÀY 13/07/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 13 tháng 7 năm 2022, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố T. Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh T mở phiên tòa xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 149/2022/HSST ngày 31/5/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 162/2022/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 6 năm 2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Phạm Quang B, tên gọi khác: không; sinh ngày 28 tháng 8 năm 1962; ĐKHKTT: Xóm 1, xã Phúc Hà, thành phố T, tỉnh T;Chỗ ở: Xóm 2, xã Phúc Hà, thành phố T, tỉnh T ;

Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 10/10; Dân tộc:Kinh; Giới tính: N;Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt N; Con ông: Phạm Văn T (đã chết) và con bà Mầu Thị L (đã chết); Vợ, con: Chưa có; Tiền án - Tiền sự: Không;

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 04/4/2022 đến nay, hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh T. (Có mặt tại phiên toà).

* Người chứng kiến: Ông Nguyễn Hoài N, sinh năm 1976, trú tại: Xóm Mỏ, xã Phúc Hà, thành phố T, tỉnh T (Vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Hồi 09 giờ 00 phút ngày 04/4/2022, tổ công tác của Công an xã Phúc Hà, thành phố T làm nhiệm vụ tại khu vực xóm 02, xã Phúc Hà, thành phố T phát hiện một người đàn ông có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy. Tổ công tác yêu cầu kiểm tra, người đàn ông khai tên là Phạm Quang B, B khai nhận đang cất giấu ma túy trên người và tự giác giao nộp cho Tổ công tác tại túi áo ngực bên trái B đang mặc 01 túi nilon màu trắng bên trong chứa chất bột màu trắng, B khai là Heroine mua để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với B và niêm phong vật chứng theo quy định.

Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố T tiến hành cân xác định khối lượng số chất bột màu trắng có khối lượng 0,252 gam Tại bản Kết luận giám định số 572/KL-KTHS ngày 13/4/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T kết luận: Mẫu chất bột màu trắng trong phong bì ký hiệu A1 gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine, khối lượng thu giữ ban đầu là 0,252 gam.

Tại Cơ quan điều tra, Phạm Quang B khai nhận: Khoảng 07 giờ 30 phút ngày 04/4/2022, B đi bộ từ nhà đến khu vực bãi cát thuộc phường Quan Triều, thành phố T để tìm mua ma túy sử dụng cho bản thân. Tại đây, B gặp và mua của một người đàn ông không quen biết 01 túi Heroine được gói bằng túi nilon màu trắng với giá 400.000 đồng. Mua xong B cất Heroine vào túi áo ngực bên trái B đang mặc rồi đi đến khu vực xóm 02, xã Phúc Hà, thành phố T để sử dụng nhưng chưa kịp sử dụng thì bị cơ quan Công an phát hiện, bắt quả tang và thu giữ vật chứng.

Lời khai nhận của Phạm Quang B phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người chứng kiến, vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án.

Vật chứng của vụ án gồm: 02 bì niêm phong ký hiệu A1, A2.Hiện được bảo quản tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T.

Tại bản cáo trạng số 161/CT-VKSTPTN ngày 30/5/2022 Viện kiểm sát nhân dân thành phố T, tỉnh T đã quyết định truy tố Phạm Quang B về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như lời khai tại cơ quan điều tra và bản cáo trạng mô tả. Bị cáo thừa nhận hành vi của mình là vi phạm pháp luật.

Kết thúc phần thẩm vấn, tại phần tranh luận, vị Đại diện Viện kiểm sát nhân dân TP. T, tỉnh T giữ quyền công tố đã trình bày lời luận tội, giữ nguyên quan điểm truy tố. Sau khi phân tích, đánh giá các chứng cứ, đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Phạm Quang B phạm tội“ Tàng trữ trái phép chất ma túy”: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, Điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt: Bị cáo Phạm Quang B: Từ 18 đến 24 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu, tiêu hủy 01 bì niêm phong kí hiệu A1 bên trong chứa 0,242gam ma túy và vỏ bao mẫu hoàn lại sau giám định; 01 bì niêm phong kí hiệu A2 bên trong chứa vỏ bao mẫu ban đầu.

Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách nhà nước;Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Trong phần tranh luận bị cáo không có ý kiến tranh luận, thừa nhận việc truy tố xét xử là không oan, đúng người, đúng tội.Lời nói sau cùng của bị cáo hứa sửa chữa và xin được hưởng mức án nhẹ nhất, để sớm trở về là người công dân có ích cho gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên và kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân thành phố T trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Phạm Quang B không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó,các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2].Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Phạm Quang B thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội do bị cáo thực hiện.Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà là khách quan phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người chứng kiến, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan với vật chứng đã thu được,Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Kết luận giám định và các chứng cứ tài liệu khác được thu thập hợp lệ có trong hồ sơ vụ án.Như vậy, Hội đồng xét xử đã có đủ căn cứ xác định: Hồi 09 giờ 00 phút ngày 04/4/2022, tại xóm 02, xã Phúc Hà, thành phố T, tỉnh T, Phạm Quang B đang tàng trữ 0,252 gam Heroine để sử dụng thì bị tổ công tác của Công an thành phố T phát hiện, thu giữ vật chứng.

Hành vi, ý thức của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” tội phạm và hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

[3]. Bản cáo trạng số 161/CT-VKSTPTN ngày 30/5/2022 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố T, tỉnh T truy tố bị cáo Phạm Quang B về tội danh và điều luật viện dẫn là có căn cứ và đúng quy định của pháp luật.

Nội dung điều 249 quy định như sau:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

.....

c, Heroine, ... có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”.

[4] Về tính chất, mức độ hành vi: Xét tính chất vụ án là nghiêm trọng,hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Hành vi đó đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ quản lý độc dược của Nhà nước gây mất trật tự trị an xã hội. Bị cáo nhận thức được tác hại của ma túy đối với sức khỏe, kinh tế xã hội. Hành vi phạm tội của bị cáo cần phải xét xử bằng pháp luật hình sự và có một mức án phù hợp, buộc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội để giáo dục bị cáo, đồng thời răn đe phòng chống tội phạm chung.

[5] Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Hội đồng xét xử thấy: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình do đó bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự, bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào theo quy định tại Điều 52 Bộ Luật hình sự.

[6] Về hình phạt: Căn cứ vào tính chất, mức độ tội phạm do bị cáo thực hiện, sau khi xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân đối với bị cáo. Hội đồng xét xử thấy rằng bị cáo Phạm Quang B trong quá trình điều tra và tại phiên tòa đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Vì vậy, cần xem xét giảm một phần hình phạt cho bị cáo để bị cáo yên tâm cải tạo tốt sớm trở về với gia đình và xã hội, thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật.

Mức hình phạt mà vị đại diện Viện kiểm sát đề nghị trong phần luận tội là phù hợp.

[7]. Về hình phạt bổ sung: Bị cáo tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng, lời khai của bị cáo tại phiên tòa xác định bị cáo không có tài sản, thu nhập, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[8] Về việc xử lý hành vi và các đối tượng có liên quan:Về nguồn gốc số ma túy bị thu giữ, Phạm Quang B khai mua của một người đàn ông không rõ lai lịch, địa chỉ tại khu vực phường Quan Triều, thành phố T nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố T không có cơ sở điều tra làm [9] Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu, tiêu hủy: 01 bì niêm phong kí hiệu A1 bên trong chứa 0,242gam ma túy và vỏ bao mẫu hoàn lại sau giám định; 01 bì niêm phong kí hiệu A2 bên trong chứa vỏ bao mẫu ban đầu.

10].Án phí và quyền kháng cáo:Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm nộp ngân sách nhà nước và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

 Căn cứ vào: Điểm c Khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1Điều 51, Điều 38, Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106, Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự.

1/ Xử phạt: Phạm Quang B 18 (Mười tám) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam bị cáo 04/4/2022; Quyết định tạm giam bị cáo 45 (bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

2/ Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

3/ Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu, tiêu hủy: 01 bì niêm phong kí hiệu A1 bên trong chứa 0,242gam ma túy và vỏ bao mẫu hoàn lại sau giám định, mặt sau bì có 03 dấu tròn của Phòng Kĩ thuật hình sự Công an tỉnh T và chữ ký của Nguyễn Minh T và Ma Nhật A; 01 bì niêm phong kí hiệu A2 bên trong chứa vỏ bao mẫu ban đầu, mặt sau bì có 03 dấu tròn của Cơ quan CSĐT Công an TP T và chữ ký của Trần Văn H, Nguyễn Hữu H, Nguyễn Hoài N, Vũ Đức T, Phạm Quang B, Đỗ Thu H.

(Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 215 ngày 31/5/2022 giữa Công an thành phố T với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T, tỉnh T).

4/Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326 của UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Phạm Quang B phải nộp 200.000đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách nhà nước.

5/ Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án hình sự sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

21
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 157/2022/HS-ST

Số hiệu:157/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về