Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 157/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TỪ SƠN, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 157/2022/HS-ST NGÀY 28/07/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Hôm nay, ngày 28 tháng 7 năm 2022, tại Điểm cầu trung tâm: Trụ sở Toà án nhân dân thành phố T. Điểm cầu thành phần: Trại tạm giam Công an tỉnh B. Mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 167/2022/TLST - HS ngày 01/07/2022. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 172/2022/QĐXXST- HS ngày 18/07/2022, đối với bị cáo:

Lương Văn L, sinh năm 1990. Tên gọi khác: Không.

Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Thôn Hin L, xã Yên T, huyện L, tỉnh Y; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 07/12; Dân tộc: Nùng; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lương Văn C, sinh năm 1966 và bà Diêm Thị H, sinh năm 1971; Vợ, con: Chưa có.

Tiền án: Tại Bản án số: 53 ngày 27/03/2019 của TAND quận L, thành phố H xử phạt bị cáo 22 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Ngày 05/7/2020 bị cáo chấp hành xong toàn bộ bản án.

Tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 03/05/2013 UBND huyện L, tỉnh Y ra Quyết định số 963 buộc bị cáo vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong thời hạn 24 tháng. Ngày 03/5/2015 bị cáo chấp hành xong trở về địa phương.

Ngày 01/4/2022 cơ quan điều tra Công an quận Tây Hồ, thành phố H ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 điều 173 BLHS. Hiện vụ án đang trong giai đoạn điều tra.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 16/03/2022 đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh B. Có mặt tại Điểm cầu thành phần.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 22 giờ ngày 15/03/2022 tại khu phố Tân Lập, phường Đ, thành phố T, tỉnh B, tổ công tác phòng PK02 Công an tỉnh B đã bắt quả tang Lương Văn L đang có hành vi tàng trữ trái phép 02 gói nhỏ đều được bọc ngoài bằng giấy màu vàng, bên trong có chứa chất bột màu trắng. L khai nhận 02 gói nhỏ trên là ma túy Heroine mua với mục đích để sử dụng cho bản thân.

Vật chứng thu giữ: 02 gói nhỏ đều được bọc ngoài bằng lớp giấy màu vàng, bên trong đều chứa chất bột màu trắng; 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu trắng, BKS 98B2-xxxxxx, số khung RLHHC125XFY258450, số máy HC12E7258434.

Tại Bản Kết luận giám định số: 252/KLGĐMT-PC09 ngày 16/03/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B kết luận:

" Chất bột màu trắng bên trong 02 (hai) gói nhỏ đều được bọc ngoài bằng lớp giấy màu vàng gửi giám định có khối lượng là 0,3290g; Là ma túy; Loại ma túy Heroine”.

Cáo trạng số: 90/CTr-VKSTS ngày 29/6/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố T đã truy tố bị cáo Lương Văn L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo Lương Văn L khai nhận bản thân nghiện ma túy từ năm 2012, Khoảng 21 giờ 55 phút ngày 15/03/2022, L ngồi uống nước tại quán ở khu phố Chùa Dận, phường Đ, thành phố T, tỉnh B thì gặp anh Đoàn Văn T, sinh năm 1989, HKTT tại bản Đ, xã Canh N, huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang. Thấy anh T có chiếc xe mô tô Honda Wave, BKS 98B2-xxxxxx nên L nảy sinh ý định mượn chiếc xe mô tô của anh T để đi mua ma túy. L nói với anh T: mượn xe để đi đón bạn, anh T đồng ý và đưa chìa khóa xe cho L. Sau khi mượn được xe của anh T, L điều khiển xe đến một ngõ nhỏ thuộc phường Đ, thành phố T thì gặp một người đàn ông không quen biết có biểu hiện nghiện ma túy. L hỏi chỗ mua ma túy thì được người này chỉ đến một ngôi nhà trong ngõ. Khi đến trước cổng ngôi nhà, L đưa số tiền 400.000 đồng qua một ô vuông trên cổng thì bên trong nhà có người đưa ra cho L 02 gói nhỏ đều được bọc ngoài bằng giấy màu vàng. L biết đây là ma túy Heroine nên cất vào trong người rồi đi xe tìm nơi sử dụng. Đến khoảng 22 giờ khi L đi đến khu phố Tân Lập, phường Đ,thành phố T, tỉnh B thì bị tổ công tác Công an tỉnh B kiểm tra bị cáo tự giác giao nộp 02 gói nhỏ đều được bọc ngoài bằng lớp giấy màu vàng, bên trong đều chứa chất bột màu trắng; 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu trắng, BKS 98B2-xxxxxx, số khung RLHHC125XFY258450, số máy HC12E7258434 Sau đó Công an đã lập biên bản thu giữ toàn bộ số ma túy này. Bị cáo xác nhận hành vi của bị cáo là vi phạm pháp luật.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố T thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử sơ thẩm vẫn giữ nguyên quyết định đã truy tố đối bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lương Văn L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điểm h khoản 1 Điều 52 và Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Lương Văn L từ 18 tháng đến 21 tháng tù. Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Đề nghị Hội đồng xét xử xử lý vật chứng của vụ án theo quy định của pháp luật.

Trong phần tranh luận, sau khi nghe đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố T công bố bản luận tội, bị cáo không có tranh luận gì với bản luận tội của đại diện Viện kiểm sát mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

{1} Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

{2} Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng và lời khai của bị cáo tại phiên tòa. Thể hiện: Hồi 22 giờ ngày 15/03/2022 tại khu phố Tân Lập, phường Đ, T, B, tổ công tác phòng PK02 Công an tỉnh B đã bắt quả tang Lương Văn L đang có hành vi tàng trữ trái phép 0,3290g ma túy Heroine với mục đích để sử dụng cho bản thân.

Như vậy, có đủ cơ sở để kết luận hành vi của bị cáo Lương Văn L đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tội phạm và hình phạt được quy định tại Điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Do đó, bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố T truy tố bị cáo với tội danh và điều luật như đã viện dẫn ở trên là hoàn toàn có cơ sở, đúng người, đúng tội và đúng theo quy định của pháp luật.

{3} Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, đã cố ý xâm phạm trực tiếp đến chính sách độc quyền của Nhà nước về chất ma túy, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo một mức án thật nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng cải tạo, giáo dục đối với bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung.

Xét về nhân thân, các tình tiết tăng nặng cũng như giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo. Hội đồng xét xử thấy rằng: Bản thân bị cáo là người có nhân thân xấu. Ngày 03/05/2013 UBND huyện L, tỉnh Y ra Quyết định buộc bị cáo vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong thời hạn 24 tháng, bị cáo đã chấp hành xong Quyết định. Ngày 01/4/2022 cơ quan điều tra Công an quận Tây Hồ, thành phố H ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 điều 173 BLHS. Hiện vụ án đang trong giai đoạn điều tra. Mặt khác; Tại Bản án số: 53 ngày 27/03/2019 của TAND quận L, thành phố H xử phạt bị cáo 22 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Ngày 05/7/2020 bị cáo chấp hành xong toàn bộ bản án tuy nhiên tính đến ngày phạm tội lần này bị cáo chưa được xóa án tích nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Tái phạm” theo quy định tại Điểm h khoản 1 Điều 52 BLH điều đó thể hiện sự coi thường pháp luật của bị cáo do vậy đối với bị cáo cần phải áp dụng mức hình phạt tương xứng với tính chất, hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra. Tuy nhiên, cũng cần xem xét quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo, đồng thời tỏ rõ thái độ ăn năn hối cải nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Hội đồng xét xử áp dụng khi lượng hình để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo nhằm thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật xã hội chủ nghĩa.

Tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự còn quy định có thể áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền, cấm đảm nhiệm chức vụ...Tuy nhiên Hội đồng xét thấy; bị cáo nghiện ma túy, lại không có nghề nghiệp ổn định, mục đích bị cáo tàng trữ ma túy chỉ để sử dụng nên miễn áp dụng toàn bộ hình phạt bổ sung đối với bị cáo là phù hợp.

Đối với anh Đoàn Văn T: Quá trình điều tra xác định chiếc xe mô tô Honda Wave, BKS 98B2-xxxxxx thuộc sở hữu hợp pháp của anh T, khi cho L mượn anh T không biết việc L đi mua ma túy nên cơ quan điều tra không xử lý và trả lại cho anh T chiếc xe mô tô trên là phù hợp. Sau khi nhận lại chiếc xe anh T không có đề nghị gì. Do vậy HĐXX không đưa anh T vào tham gia tố tụng trọng vụ án là phù hợp.

Đối với ngôi nhà mà L đã mua ma túy và người đã bán ma túy cho L tại phường Đ, thành phố T: mà bị cáo khai do L không nhớ đặc điểm, địa chỉ cụ thể của ngôi nhà, không biết tên tuổi, không nhớ đặc điểm nào của người đã bán ma túy cho L nên cơ quan điều tra tiếp tục xác minh khi nào làm rõ sẽ đề nghị xử lý sau. Do vậy Hội đồng xét xử không xem xét xử lý là phù hợp.

{4} Về vật chứng của vụ án: Đối với 01 phong bì thư được niêm phong theo quy định bên trong chứa mẫu vật còn lại sau giám định theo như Kết luận giám định số: 252/KLGĐMT-PC09 ngày 16/03/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B. Đây là vật Nhà nước cấm lưu hành và là vật dụng dùng để cất giấu ma túy nên cần tịch thu, tiêu hủy.

{5} Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ nêu trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Lương Văn L, phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106; Điều 329; Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử phạt bị cáo: Lương Văn L 20 (Hai mươi ) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 16/03/2022 là ngày tạm giữ, tạm giam bị cáo.

Tiếp tục tạm giam bị cáo 45 (Bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo công tác thi hành án.

Về vật chứng của vụ án: Tịch thu, tiêu hủy 01 (Một) phong bì thư được niêm phong theo quy định bên trong chứa mẫu vật còn lại sau giám định theo như Kết luận giám định số: 252/KLGĐMT-PC09 ngày 16/3/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B. (Theo như biên bản giao, nhận vật chứng tài sản ngày 29/06/2022 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố T với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T).

Về án phí: Buộc bị cáo Lương Văn L phải nộp 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự:

Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

17
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 157/2022/HS-ST

Số hiệu:157/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Từ Sơn - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về