TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUẾ VÕ, TỈNH BẮC NINH
BẢN ÁN 157/2022/HSST NGÀY 23/09/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 23 tháng 9 năm 2022, tại TAND huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 158/2022/TLST-HS ngày 06 tháng 9 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 155/2022/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 9 năm 2022 đối với các bị cáo:
1. TĐL, sinh năm 1998.
HKTT: thôn Trúc Ổ, xã Mộ Đạo, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Đức Mỹ và bà Nguyễn Thị Trải; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự, nhân thân: không; bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 29/5/2022 đến nay, hiện đang tạm giam trại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Ninh. Có mặt.
2. NTT, sinh năm 1998.
HKTT: thôn Trúc Ổ, xã Mộ Đạo, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Thế Tịnh và bà Lương Thị Hiền; có vợ là Trần Thị Pha và chưa có con; tiền án, tiền sự, nhân thân: không; bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 29/5/2022 đến nay, hiện đang tạm giam trại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Ninh. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các T liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
TĐL và NTT là bạn bè với nhau và cùng là đối tượng sử dụng ma túy. Khoảng 17 giờ ngày 29/5/2022, T rủ L đi uống bia ở thôn Trúc Ổ, xã Mộ Đạo, huyện Quế Võ. Sau khi uống bia, T và L về nhà T rồi T lấy xe máy nhãn hiệu Vision BKS 99E1 – 398.65 để chở L về. Trên đường L nói với T “Có làm tý không, hôm nay tôi mời” - ý rủ T sử dụng ma tuý, T không trả lời và tiếp tục điều khiển xe đi. Sau đó, L điện thoại cho một người bạn quen biết ngoài xã hội (L chỉ biết tên là Huy) hỏi mua ma tuý, H đồng ý hẹn gặp L tại xã Yên Giả, huyện Quế Võ. Sau đó, L bảo T chở đến xã Yên Giả để mua ma tuý. Khi đến xã Yên Giả thì H lại bảo L quay về khu vực ngã 3 chợ Mộ Đạo. Trên đường về, L nói: “Tôi có hai trăm nghìn đồng, ông đưa cho tôi một trăm”, T hiểu L nói như vậy là góp tiền vào để mua ma túy về cùng sử dụng chung nên đồng ý và đưa cho Linh 100.000đ. Khi cả hai đi đến khu vực ngã 3 chợ Mộ Đạo thì T xuống xe, còn L điều khiển xe máy đi ra hướng Hồ thôn Mộ Đạo thì gặp Huy. Tại đây, L đưa cho H 300.000đ, H cầm tiền và đưa cho L 01 gói nilon màu trắng bên trong chứa chất tinh thể màu trắng và 01 viên nén hình tròn màu hồng trên bề mặt có chữ W. Biết là ma tuý cần mua nên L cầm ở lòng bàn tay trái và điều khiển xe máy quay lại chỗ Tài. Đúng lúc này, tổ công tác Công an xã Mộ Đạo yêu cầu kiểm tra hành chính. Khi bị phát hiện, bắt giữ, L đã làm rơi gói ma túy vừa mua được xuống đất, cách chân khoảng 40- 50cm. Sau đó, L tự nguyện nhặt gói ma tuý lên giao nộp cho Cơ quan Công an.
Tại bản Kết luận giám định số 753/KL-KTHS ngày 31/5/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Ninh kết luận: “Chất tinh thể màu trắng bên trong 01 (một) gói nilon màu trắng có khối lượng là 0,1607 gam; Là ma túy; Loại ma túy: Methamphetamine.
01 (một) viên ném hình tròn màu hồng có chữ W bên trong 01 (một) gói nilon màu trắng có khối lượng là 0,1080 gam; Là ma túy; Loại ma túy: Methamphetamine.
Methamphetamine là chất ma túy được quy định tại nghị quyết 73/2018/NĐ-CP, ngày 15/5/2018 của Chính Phủ ban hành các danh mục chất ma túy và tiền chất.” Với nội dung trên, bản Cáo trạng số: 126/CT-VKSQV ngày 05/9/2022 của VKSND huyện Quế Võ đã truy tố TĐL và NTT về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa L và T đều đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như Cáo trạng đã nêu.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Võ thực hành quyền công tố tại phiên tòa phát biểu luận tội, sau khi phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, đã đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố TĐL và NTT phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và đề nghị:
- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 (áp dụng thêm khoản 2 Điều 51 đối với Linh); Điều 17; Điều 38; Điều 58 Bộ luật Hình sự:
Xử phạt TĐL và NTT mỗi bị cáo từ 15-20 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 29/5/2022.
- Về hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho các bị cáo.
- Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự: Tịch thu tiêu hủy mẫu vật còn lại sau giám định.
- Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
Các bị cáo không tranh luận gì với đại diện VKSND huyện Quế Võ.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các T liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng: Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng và đầy đủ các hành vi, quyết định tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự.
[2] Khoảng 18 giờ 15 phút ngày 29/5/2022, tại đường thôn Mộ Đạo, xã Mộ Đạo, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh, TĐL và NTT đã cùng nhau góp tiền mua 0,2687 gam ma túy Methamphetamine, mục đích để sử dụng cho bản thân. Do đó hành vi của L và T đã cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự như Cáo trạng đã truy tố.
[3] Vụ án có tính chất đồng phạm giản đơn trong đó L có vai trò chính, là người đã khởi xướng, rủ rê T mua ma túy, và L cũng là người trực tiếp đi mua ma túy để sử dụng. Còn T có vai trò giúp sức, cùng góp tiền để L mua ma túy. Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền của Nhà nước về quản lý chất ma túy, ma túy còn là nguồn gốc dẫn tới nhiều tệ nạn xã hội và tội phạm khác. Do đó, cần có hình phạt nghiêm khắc cách ly L và T khỏi xã hội một thời gian tương xứng với vai trò của mỗi bị cáo. Tuy nhiên, các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, sau khi phạm tội L và T đã thành khẩn khai báo nên đều được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, do đó cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo.
Bị cáo L trình bày có bác ruột là liệt sỹ, nhưng đây không phải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[4] Về hình phạt bổ sung: Do Linh, T là đối tượng không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định nên miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho các bị cáo.
[5] Về vật chứng gồm có: 01 phong bì thư đựng mẫu vật còn lại sau giám định cần tịch thu tiêu hủy.
Đối với xe mô tô 01 xe mô tô BKS 99E1 – 398.65, quá trình điều tra xác định là T sản của chị Trần Thị Pha (vợ của Tài). Chị Pha không biết việc T lấy đi và sử dụng làm phương tiện để đi mua ma tuý, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Quế Võ trả cho chị Pha chiếc xe trên là phù hợp.
Đối với điện thoại L dùng liên lạc với H để mua ma tuý, khi bị Công an kiểm tra bắt giữ L đã bị rơi. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Quế Võ đã thông báo truy tìm vật chứng nhưng đến nay chưa thu hồi được.
[6] Về án phí: Linh, T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
[7] Đối với người đàn ông tên H là người đã bán ma tuý cho Linh, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Quế Võ xác minh tại tại thôn Vũ Dương, xã Bồng lai, huyện Quế Võ chỉ có người tên là Nguyễn Văn Huy, sinh năm 1989. Hiện H không có mặt ở địa phương, gia đình H không biết H đi đâu, làm gì. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Quế Võ tiếp tục điều tra xác minh, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố TĐL và NTT phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 38; Điều 58 Bộ luật Hình sự; Điều 329 Bộ luật Tố tụng Hình sự:
- Xử phạt TĐL 16 (mười sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 29/5/2022.
- Xử phạt NTT 14 (mười bốn) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 29/5/2022.
Quyết định tạm giam Linh, T mỗi bị cáo 45 (bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án để bảo đảm việc thi hành án.
* Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì thư đựng mẫu vật còn lại sau giám định. (Theo Biên bản bàn giao vật chứng số 128 ngày 05/9/2022 giữa Công an huyện Quế Võ với Chi cục THADS huyện Quế Võ).
* Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội:
Linh, T mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 157/2022/HSST
Số hiệu: | 157/2022/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Quế Võ - Bắc Ninh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 23/09/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về