Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 157/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ QUY NHƠN - TỈNH BÌNH ĐỊNH

BẢN ÁN 157/2022/HS-ST NGÀY 29/07/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 7 năm 2022 tại trụ sở, Tòa án nhân dân TP Quy Nhơn, tỉnh Bình Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 147/2022/TLST-HS ngày 03/6/2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 149/2022/QĐXXST-HS ngày 27/6/2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trần Quang T (Thường gọi: T dừa), giới tính: Nam; sinh năm 1989 tại TP. Quy Nhơn; Nơi cư trú: Tổ A, khu phố B, phường Đ, TP. Quy Nhơn, tỉnh Bình Định; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 7/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên chúa giáo; Con ông: Trần Quang S, sinh năm 1968 và bà: Lê Thị H (chết); Vợ: Nguyễn Thị Mỹ A (đã ly hôn), có 01 con sinh năm 2008; Tiền án: (03 tiền án) - Ngày 30/3/2010, bị Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định xử phạt 06 năm 09 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản” và “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

- Ngày 21/9/2016, bị Tòa án nhân dân TP. Quy Nhơn, tỉnh Bình Định xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

- Ngày 26/9/2018, bị Tòa án nhân dân TP. Quy Nhơn, tỉnh Bình Định xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong hình phạt ngày 05/6/2021.

Tiền sự: Không; Bị bắt tạm giam từ ngày 10/02/2022 đến nay, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an TP. Quy Nhơn; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người làm chứng:

Anh Lê Văn K 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 09 giờ ngày 10/02/2022, Tổ công tác của Công an TP. Quy Nhơn kiểm tra hành chính nhà thuê trọ ở số A đường T, phường N, TP. Quy Nhơn của ông Lê Quốc K phát hiện Trần Quang T có biểu hiện nghi vấn đã sử dụng trái phép chất ma túy. Tiếp tục kiểm tra, cơ quan Công an phát hiện trên sàn của gác lửng trong phòng trọ có 01 gói thuốc lá hiệu JET, bên trên gói thuốc lá có 01 gói nilon chứa các hạt tinh thể nghi là ma túy. T khai nhận gói nilon trên là ma túy đá của T cất giữ để sử dụng. Tổ công tác đã thu giữ, niêm phong số chất là ma túy và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Trần Quang T.

Ngày 11/02/2022, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Định ban hành Kết luận giám định số 57/PC09 kết luận: Các hạt tinh thể đựng trong 01 gói nilon (ký hiệu A) gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,2536 gam là Methamphetamine.

Quá trình điều tra xác định: Khoảng tháng 11/2021, Trần Quang T có quen biết với một người bạn ngoài xã hội có tên thường gọi là Xỉn (không rõ lai lịch), cả hai biết nhau đều sử dụng ma túy đá. Tối ngày 09/02/2022, Xỉn tới nhà trọ của T chơi, Trọng có đưa cho Xỉn 1.000.000 đồng nhờ mua 01 gói ma túy đá để sử dụng. Xỉn cầm tiền đi ra ngoài một lúc rồi quay lại đưa cho T 01 gói ma túy đá, Xỉn ở lại nói chuyện với T một lúc rồi ra về. T lấy một ít ma túy từ gói đã mua ra sử dụng một mình rồi để lên trên gói thuốc lá hiệu JET đặt trên sàn của gác lửng trong phòng trọ. Đến khoảng 09 giờ ngày 10/02/2022, Tổ công tác của Công an TP. Quy Nhơn kiểm tra, phát hiện bắt quả tang Trần Quang T có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.

Về nguồn gốc ma túy: Trần Quang T khai nhận số chất ma túy bị thu giữ là nhờ người tên Xỉn (không rõ lai lịch) mua giúp vào ngày 09/02/2022 với giá 1.000.000 đồng.

Tại bản Cáo trạng số 81/CT-VKSQN ngày 30/5/2022 Viện kiểm sát nhân dân TP. Quy Nhơn truy tố bị cáo Trần Quang T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm o khoản 2 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Bị cáo Trần Quang T thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như Cáo trạng đã truy tố. Do đó, Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Trần Quang T theo Cáo trạng. Đề nghị HĐXX áp dụng điểm o khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Trần Quang T từ 05 năm đến 06 năm tù.

Xử lý vật chứng: Đề nghị HĐXX tịch thu tiêu hủy số lượng ma túy còn lại sau giám định và vỏ, bao bì đựng ma túy; đề nghị HĐXX trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động Iphone 6S, do không liên quan đến hành vi phạm tội.

Bị cáo tự bào chữa: Bị cáo Trần Quang T thừa nhận hành vi phạm tội, không bào chữa.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo Trần Quang Trọng xin HĐXX giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Quy Nhơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quy Nhơn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Bị cáo Trần Quang T là người nghiện ma túy, vào ngày 09/02/2022, bị cáo đã liên hệ một người thanh niên tên Xỉn (không rõ lai lịch) mua 01 gói ma túy đá với giá 1.000.000 đồng để sử dụng. Vào ngày 10/02/2022, tổ công tác kiểm tra phòng trọ của bị cáo thu giữ 01 gói thuốc lá hiệu JET bên trong có chứa các hạt tinh thể nghi là ma túy, bị cáo khai đây là ma túy đá do bị cáo mua về để sử dụng. Tại kết luận giám định số 57/PC09 ngày 11/02/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Bình Định kết luận: Các hạt tinh thể đựng trong 01 gói nilon (ký hiệu A) gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,2536 gam là Methamphetamine.

Methamphetamine nằm trong danh mục chất ma túy và tiền chất có số thứ tự là 323, danh mục II, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ, là chất gây nghiện, gây tác hại rất lớn, ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người nên Nhà nước độc quyền quản lý, mọi việc cất giữ, mua bán, sử dụng chất này phải theo quy định đặc biệt của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Bị cáo Trần Quang T có đầy đủ sức khỏe, năng lực để nhận thức và điều khiển hành vi của mình nên biết rõ điều đó, nhưng xem thường pháp luật, bị cáo đã tàng trữ ma túy để thõa mãn cơn nghiện, số ma túy thu giữ của bị cáo có khối lượng 0,2536 gam là ma túy loại Methamphetamine. Bị cáo Trần Quang T có 03 tiền án chưa được xóa án tích, bị cáo đã “Tái phạm nguy hiểm” tiếp tục phạm tội do cố ý nên lần này phạm tội với tình tiết định khung “Tái phạm nguy hiểm”. Do đó, Cáo trạng viện kiểm sát nhân dân TP. Quy Nhơn truy tố bị cáo Trần Quang T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 của Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng tội.

[3] Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy do bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự ở địa phương, nên phải xử phạt nghiêm, cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục và phòng ngừa chung cho xã hội.

[4] Xét về nhân thân; tình tiết tăng nặng; giảm nhẹ của bị cáo thì thấy:

4.1 Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu.

4.2 Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

4.3 Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra, tại phiên tòa, bị cáo khai báo thành khẩn, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự, nên xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo an tâm cải tạo tốt.

[5] Xử lý vật chứng: Cơ quan điều tra hiện thu giữ số ma túy còn lại sau giám định, bao bì đựng ma túy và 01 điện thoại di động hiệu Iphone. Xét thấy, chất ma túy do Nhà nước cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định kể cả vỏ bao bì đựng ma túy. Đối với điện thoại di động, đây là tài sản của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại điện thoại cho bị cáo.

[6] Về án phí: Bị cáo bị kết án về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự.

[7] Về vấn đề khác: Đối với người nam tên Xỉn mua giúp ma túy cho bị cáo Trần Quang T, Cơ quan CSĐT Công an TP. Quy Nhơn tiếp tục điều tra, xác minh làm rõ theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm o khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Căn cứ Điều 48 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14  ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử:

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Trần Quang T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Trần Quang T 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 10/02/2022.

3. Xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy:

+ 01 (một) bì thư dán kín niêm phong 03 dấu tròn của “Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Định”, có chữ ký của Lê Tuấn T, Nguyễn Nhật H và Nguyễn Thành T (tất cả đều 01 chữ ký), bên ngoài bì thư ghi: Hoàn lại đối tượng giám định gồm: Vỏ, bao bì đựng mẫu vật còn lại sau giám định; 0,1364 gam mẫu A còn lại sau giám định.

+ 01 vỏ gói thuốc hiệu JET.

- Trả lại cho bị cáo: 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 6S, mặt sau màu đỏ, có số imei: 355425071914089, gắn sim số 0787798029 (đã qua sử dụng).

Theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 15 tháng 6 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự TP. Quy Nhơn.

4. Án phí: Buộc bị cáo Trần Quang T phải chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

193
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 157/2022/HS-ST

Số hiệu:157/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Qui Nhơn - Bình Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:29/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về