TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TP - TỈNH BT
BẢN ÁN 156/2023/HS-ST NGÀY 22/11/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 22 tháng 11 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện TP, tỉnh BT xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 149/2023/TLST-HS ngày 16 tháng 10 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 143/2023/QĐXXST- HS ngày 02 tháng 11 năm 2023, đối với bị cáo:
Nguyễn Văn L., sinh ngày 01-7-1991 tại tỉnh BT.
Nơi thường trú và chỗ ở hiện nay: thôn Hà Thủy 3, xã CC, TP, BT; nghề nghiệp: làm biển; trình độ học vấn: không biết chữ; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Tư, sinh năm 1966 và bà Nguyễn Thị Sơn, sinh năm 1969; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: không;
Bị cáo bị bắt ngày 01-10-2023, có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Nguyễn Văn L. là đối tượng nghiện ma túy, đã thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Cụ thể: Vào khoảng gần 09 giờ 00 phút, ngày 04-01-2023, Nguyễn Thanh S đi đến khu vực chợ CC thuộc thôn Hiệp Đức 2, xã CC thì gặp Nguyễn Văn L. đang điều khiển xe mô tô biển số 86B1-X nên hỏi mượn tiền mua ma túy sử dụng. Do cũng có nhu cầu sử dụng nên Lâu bàn bạc với S mỗi người góp 200.000 đồng mua ma túy sử dụng chung. Lúc này, S chỉ có 50.000 đồng nên mượn thêm số tiền 150.000 đồng của Lâu. Sau đó, Lâu điều khiển xe mô tô trên chở theo S đến khu vực xóm Cốt thuộc thị trấn Phan Rí Cửa gặp một thanh niên (không rõ lai lịch) mua 04 tép heroin với giá 400.000 đồng. Sau khi có ma túy, Lâu chở S về lại xã CC để tìm nơi sử dụng. Khi Lâu điều khiển xe mô tô đến khu phố Minh Tân 3, thị trấn Phan Rí Cửa thì bị lực lượng chức năng phát hiện và lập biên bản phạm tội quả tang. Thu giữ gói thuốc lá hiệu Jet, bên trong có 04 đoạn ống nhựa màu đỏ được hàn kín 02 đầu, có cùng kích thước (01 x 1,5)cm, chứa chất rắn (ký hiệu M) gửi giám định. Tại Kết luận giám định số 366/KL-KTHS ngày 30-3-2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh BT, kết luận: Mẫu M có khối lượng 0,1557 gam là Heroin.
Trong quá trình truy tố, Nguyễn Văn L. đã bỏ địa phương đi đâu không rõ nên Viện Kiểm sát nhân dân huyện TP đã có Quyết định tách vụ án hình sự đối với Nguyễn Văn L.. Ngày 28-9-2023, Nguyễn Thanh S bị Tòa án nhân dân huyện TP xử phạt 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tại Bản án số 120/2023/HSST. Ngày 01-10-2023, Nguyễn Văn L. bị bắt theo Quyết định truy nã số 08/QĐ-TN, ngày 18-9-2023 của Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an huyện TP.
Về tang, vật chứng của vụ án: Đã xử lý tại Bản án số 120/2023/HSST, ngày 28-9-2023 của Tòa án nhân dân huyện TP.
Tại Bản Cáo trạng số 161/CT-VKSTP-HS, ngày 16 tháng 10 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện TP đã truy tố Nguyễn Văn L. về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.
Tại phiên tòa:
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện TP giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 58 và Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo từ 01 (một) năm 03 (ba) tháng đến 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;
- Bị cáo Nguyễn Văn L. thừa nhận toàn bộ hành vi như nội dung bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện TP đã truy tố và việc truy tố bị cáo là đúng, không oan. Bị cáo đề nghị xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện TP, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện TP, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn L. không có ý kiến, cũng như không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện, đều hợp pháp.
[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và biên bản phạm tội quả tang, đã làm rõ: Bị cáo Nguyễn Văn L. và Nguyễn Thanh S là các đối tượng nghiện ma túy, do có nhu cầu sử dụng nên góp tiền để mua ma túy sử dụng chung. Cụ thể, vào lúc 09 giờ 30 phút ngày 04-01-2023, lực lượng chức năng đã bắt quả tang bị cáo Nguyễn Văn L. đang điều khiển xe mô tô biển số 86B1-X chở theo sau Nguyễn Thanh S đang nắm giữ trên tay phải 04 tép ma túy, qua giám định là ma túy loại Heroine có khối lượng 0,1557 gam (Tại Bản kết luận giám định ma túy số 366/KL-KTHS, ngày 30-3-2023). Nguyễn Thanh S đã khai nhận số ma túy trên có được là do S và bị cáo cùng nhau góp tiền chung mua để sử dụng. Trong quá trình điều tra vụ án, bị cáo đã bỏ địa phương đi đâu không rõ nên Viện kiểm sát nhân dân huyện TP đã tách vụ án xử lý sau và ngày 28-9-2023, Nguyễn Thanh S đã bị Tòa án nhân dân huyện TP xét xử về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Ngày 01-10-2023, bị cáo bị bắt theo Quyết định truy nã số 08/QĐ-TN, ngày 18-9-2023 của Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an huyện TP nên Viện kiểm sát nhân dân huyện TP tiếp tục truy tố bị cáo.
Vì vậy, có đủ cơ sở kết luận bị cáo Nguyễn Văn L. phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 như Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố là hoàn toàn đúng người, đúng tội và đúng quy định của pháp luật.
[3] Bị cáo Nguyễn Văn L. là người đã trưởng thành nên có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận biết hành vi góp tiền để lén lút mua ma túy cất giấu nhằm sử dụng là trái pháp luật nhưng do bị nghiện nên đã cố ý thực hiện. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến nguyên tắc quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma túy, không những tiếp tay cho các tệ nạn xã hội mà còn làm phát sinh các loại tội phạm khác, làm ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an tại địa phương, gây hoang mang lo lắng cho gia đình và cộng đồng dân cư. Vì vậy, cần phải xử lý bị cáo một mức án nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội để bị cáo có thời gian tu dưỡng bản thân, học tập và lao động để trở thành công dân tốt.
[4] Trong vụ án này có đồng phạm Nguyễn Thanh S nên bị cáo và Nguyễn Thanh S phải chịu trách nhiệm hình sự chung đối với hành vi và hậu quả do mình thực hiện. Do Nguyễn Thanh S đã bị xử lý tại Bản án số 120/2023/HSST ngày 28-9-2023 nên Hội đồng xét xử chỉ xem xét trách nhiệm hình sự đối với bị cáo.
[5] Về tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Quá trình điều tra vụ án và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình nên đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015. Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, bị bắt theo Lệnh truy nã nên Hội đồng xét xử sẽ cân nhắc khi lượng hình đối với bị cáo.
[6] Về tang, vật chứng của vụ án: Đã xử lý tại Bản án số 120/2023/HSST ngày 28-9-2023 của Tòa án nhân dân huyện TP nên không xem xét xử lý.
[7] Đối với người bán ma túy cho bị cáo, do chưa rõ lai lịch nên tiếp tục xác minh làm rõ để xử lý sau là đúng quy định của pháp luật.
[8] Lời đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa về tội danh, điều luật áp dụng và mức hình phạt là có căn cứ, phù hợp với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[9] Bị cáo Nguyễn Văn L. phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào: Điều 268, Điều 269 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;
Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn L. phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
- Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17;
Điều 58 và Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015.
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn L. 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt 01-10-2023.
- Áp dụng: Khoản 2 Điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí của Tòa án.
Buộc bị cáo Nguyễn Văn L. phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Án xử công khai sơ thẩm, bị cáo có mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (22-11-2023).
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 156/2023/HS-ST
Số hiệu: | 156/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tuy Phong - Bình Thuận |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 22/11/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về