Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 154/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CAO BẰNG, TỈNH CAO BẰNG

BẢN ÁN 154/2023/HS-ST  NGÀY 16/11/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 16 tháng 11 năm 2023, tại điểm cầu trung tâm: Phòng xét xử Tòa án nhân dân thành phố C, tỉnh C và điểm cầu thành phần: Phòng H1, Nhà tạm giữ Công an thành phố C, tỉnh C xét xử sơ thẩm công khai trực tuyến vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 141/2023/TLST-HS ngày 18 tháng 10 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 231/2023/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 11 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố C, tỉnh C đối với các bị cáo:

1. Hoàng Văn H; Tên gọi khác: không; Sinh ngày: 12/12/1997 tại huyện Q, tỉnh C; Nơi cư trú: Xóm T, xã P, huyện Q, tỉnh C; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 09/12 phổ thông; Dân tộc: Tày; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Hoàng Văn N (Đã chết) và bà: Vi Thị S (Đã chết); Vợ, con: chưa có; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 22/8/2019, bị Tòa án nhân dân huyện Q (nay là Tòa án nhân dân huyện Q) ra quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc 24 (hai mươi bốn) tháng.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 24/7/2023 tại Nhà tạm giữ Công an thành phố C, tỉnh C đến nay; Có mặt.

2. Hoàng Quang M; Tên gọi khác: không; Sinh ngày: 27/9/1975 tại thành phố C, tỉnh C; Nơi cư trú: Tổ A, phường S, thành phố C, tỉnh C; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 06/12 phổ thông; Dân tộc: Nùng; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Hoàng Văn Đ (Đã chết) và bà: Phạm Thị M1 (Sinh năm: 1946); Vợ: Trần Thị T (Sinh năm: 1981); Con: có 01 con sinh năm 2017; Tiền sự: không; Tiền án: 01 tiền án: Ngày 07/5/2021: Tòa án nhân dân thành phố C xử phạt 16 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Nhân thân:

+ Ngày 23/7/2001: Tòa án nhân dân tỉnh C xử phạt 30 tháng tù về tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy;

+ Ngày 30/11/2005: Tòa án nhân dân thị xã C (nay là Tòa án nhân dân thành phố C) xử phạt 36 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy;

+ Ngày 23/5/2011: Ủy ban nhân dân thị xã C (nay là Ủy ban nhân dân thành phố C) ra Quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc 12 tháng Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 24/7/2023 tại Nhà tạm giữ Công an thành phố C, tỉnh C đến nay; Có mặt.

- Người bào cha cho bị cáo Hoàng Văn H: Bà Ma Thị L - Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh C; Có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Vũ Gia C - sinh năm 1956; Địa chỉ: Tổ F, phường S, thành phố C, tỉnh C; Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 13h05' ngày 24/7/2023, tổ công tác đội Cảnh sát điều tra tội phạm về Kinh tế - Ma túy Công an thành phố C làm nhiệm vụ tại khu vực tổ E, phường S phát hiện và bắt quả tang Hoàng Văn H, Hoàng Quang M có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ: 01 (một) gói giấy bạc màu vàng bên trong có chứa chất bột màu trắng dạng cục lẫn bột có khối lượng 0,12g (không phẩy một hai gam) thu giữ trong túi đằng trước bên trái chiếc quần H đang mặc; 02 (hai) xilanh kim tiêm và 01 (một) lọ novocain đều chưa qua sử dụng được thu giữ trong túi đằng trước bên phải chiếc quần H đang mặc; 01 (một) xe mô tô Honda Airbalde màu đen đã qua sử dụng, biển kiểm soát 11B1-xxxxx.

Ngày 25/7/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố C ra Quyết định trưng cầu giám định số 257 giám định chất bột màu trắng thu giữ của H và Mỹ. Tại bản kết luận giám định số 387 ngày 31/7/2023 của Phòng K Công an tỉnh C kết luận: Mu chất bột màu trng bên trong phong bì niêm phong gửi giám định là ma túy loại: Heroine.

Quá trình điều tra xác định được như sau: Khoảng giữa tháng 7/2023, Hoàng Văn H từ nhà tại xã P, huyện Q, tỉnh C đến thành phố C tìm việc làm và ở trọ nhà của ông Vũ Gia C (sinh ngày: 10/8/1956) tại tổ F, phường S, thành phố C. Khoảng 12h30' ngày 24/7/2023, H mượn xe mô tô biển kiểm soát 11B1-xxxxx của ông C rồi một mình điều khiển xe đi từ xóm trọ đến B cũ thành phố C để tìm mua Heroine sử dụng. Tại đây H nhìn thấy Hoàng Quang M nên tiến lại gần hỏi Biết chỗ nào lấy được không”. M hiểu ý H đang tìm mua Heroine nên gật đầu. H bảo Đi mua về cùng nhau sử dụng” và đưa cho M 200.000,đ (hai trăm nghìn đồng). M cầm tiền rồi điều khiển xe mô tô của H, chở H đi qua cầu N và rẽ vào khu vực xóm Đ thì gặp một người đàn ông lạ mặt trông giống người nghiện. M hỏi có hàng không. Người đàn ông trả lời “có”. M đưa cho người đàn ông đó 200.000,đ (hai trăm nghìn đồng), người này nhận tiền rồi đưa cho H01 (một) gói nhỏ giấy bạc màu vàng bên trong chứa Heroine. H cất gói Heroine vào túi phía trước bên trái chiếc quần đang mặc rồi M chở H đến một hiệu thuốc gần đó để H mua 02 xilanh và 01 lọ novocain. Sau đó M chở H đi tìm nơi sử dụng, khi đi đến khu vực tổ E, phường S thì bị Công an thành phố C phát hiện và bắt quả tang, thu giữ toàn bộ vật chứng.

Ngày 24/7/2023, các cơ quan chức năng tiến hành mở niêm phong xác định khối lượng tịnh, lấy mẫu trưng cầu giám định: “Gói giấy bạc màu vàng bên trong có chứa chất bột màu trắng dạng cục lẫn bột. Khối lượng chất bột màu trng là: 0,12g (không phy một hai gam)”.

Ngày 25/7/2023, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố C ra Quyết định trưng cầu giám định số 257 đối với vật chứng của vụ án. Tại Kết luận giám định số 387/KL-KTHS ngày 31/7/2023 của Phòng K Công an tỉnh C kết luận: “Chật bột màu trắng bên trong phong bì niêm phong gửi giám định là ma túy, loại: Heroine (Heroin)...” Hành vi của Hoàng Văn H, Hoàng Quang M đã bị cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố C, tỉnh C lập hồ sơ đề nghị truy tố trước pháp luật về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại bản Cáo trạng số: 144/CT-VKSTP ngày 18/10/2023 Viện kiểm sát nhân dân thành phố C, tỉnh C truy tố bị cáo Hoàng Văn H, Hoàng Quang M về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, các bị cáo Hoàng Văn H, Hoàng Quang M thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản Cáo trạng đã truy tố và khai: Ngày 24/7/2023, hai bị cáo cùng đi mua ma tuý với mục đích để sử dụng, ngoài ra không có mục đích gì khác. Các bị cáo không có ý kiến và nhất trí với khối lượng ma túy bị thu giữ. Đối với tài sản bị tạm giữ bị cáo H khai: Chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade màu đen, biển kiểm soát 11B1-xxxxx là xe của ông Vũ Gia C (chủ nhà trọ); khi mượn xe, bị cáo không nói cho ông C biết mình sử dụng để đi mua ma túy. Mong Hội đồng xét xử trả lại xe cho ông C.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án - ông Vũ Gia C có đơn xin xét xử vắng mặt tại phiên tòa. Trong đơn xin xét xử vắng mặt và lời khai tại cơ quan điều tra của ông C thể hiện: Ông là chủ nhà trọ của Hoàng Văn H. Chiếc xe mô tô Honda Airblade màu đen biển kiểm soát 11B1-xxxxx là của ông mua năm 2008 với giá 30.000.000đ, có đăng ký tại cơ quan Công an theo đúng quy định. Trước khi nhập viện điều trị bệnh, ông C có để xe cho những người không có xe ở xóm trọ mượn để đi lại mua đồ dùng. Ông không biết việc H sử dụng xe mô tô để đi mua ma túy, mong Hội đồng xét xử xem xét trả lại chiếc xe trên cho ông.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố C, tỉnh C giữ nguyên quan điểm truy tố đối với các bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố các bị cáo Hoàng Văn H, Hoàng Quang M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Hoàng Văn H từ 13 tháng đến 16 tháng tù.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Hoàng Quang M từ 18 tháng đến 21 tháng tù.

Các bị cáo là người nghiện ma túy, không có nghề nghiệp ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy hoàn lại mẫu sau giám định và 02 xilanh kim tiêm, 01 lọ novocain; trả lại xe mô tô biển kiểm soát 11B1-xxxxx cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Vũ Gia C.

Người bào chữa cho bị cáo Hoàng Văn H trình bày: Nhất trí với quan điểm và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về tội danh, điều luật đối với bị cáo H nhưng do bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn, bị cáo là người dân tộc thiểu số, cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn nên nhận thức pháp luật còn hạn chế; bị cáo chưa có tiền án, tiền sự; quá trình điều tra, truy tố và tại phiên toà hôm nay bị cáo luôn thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Mong Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo mức hình phạt thấp nhất mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị là 13 tháng tù. Về tài sản bị tạm giữ: Đề nghị Hội đồng xét xử trả lại xe mô tô cho ông Vũ Gia C. Về án phí: Bị cáo thuộc trường hợp được miễn nộp tiền án phí quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét miễn án phí cho bị cáo.

Tại phần tranh luận, bị cáo Hoàng Văn H nhất trí với quan điểm bảo vệ của người bào chữa. Cả hai bị cáo nhất trí và không có ý kiến tranh luận với lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố C.

Khi được nói lời sau cùng, các bị cáo đều tỏ thái độ ăn năn và mong Hội đồng xét xử xem xét cho hưởng mức án nhẹ nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về các hành vi và quyết định tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an thành phố C, tỉnh C; Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố C, tỉnh C; Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh:

Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với nhau, phù hợp với nội dung biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 24/7/2023; kết luận giám định; vật chứng; cùng các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử đã có đủ căn cứ xác định: Hồi 13h05' ngày 24/7/2023, tổ công tác đội Cảnh sát điều tra tội phạm về Kinh tế - Ma túy Công an thành phố C làm nhiệm vụ tại khu vực tổ E, phường S, thành phố C phát hiện và bắt quả tang Hoàng Văn H và Hoàng Quang M có hành vi tàng trữ trái phép 01 (một) gói Heroine có khối lượng 0,12g (không phẩy một hai gam) với mục đích để sử dụng cho bản thân.

Đây là vụ án có tính chất nghiêm trọng. Các bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được tác hại nhiều mặt của ma túy nhưng vẫn thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy với lỗi cố ý trực tiếp. Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách quản lý độc quyền của Nhà nước đối với các chất gây nghiện, gây mất trật tự trị an, an toàn xã hội và là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm khác. Hành vi của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố C, tỉnh C truy tố các bị cáo Hoàng Văn H, Hoàng Quang M về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về nhân thân: Các bị cáo đều là người có nhân thân xấu, có thái độ chấp hành pháp luật không cao; các bị cáo đã được đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc nhưng vẫn tiếp tục tái nghiện. Bị cáo Hoàng Quang M đã bị kết án nhiều lần đều về các tội phạm liên quan đến ma túy, trong đó có một tiền án (chưa được xóa án tích).

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên toà, các bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội nên được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo Hoàng Quang M có bố và mẹ là người có công với cách mạng (được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Kháng chiến Hạng Ba) nên được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo H không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Bị cáo Hoàng Quang M đã bị kết án, chưa được xóa án tích lại phạm tội với lỗi cố ý nên phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[4] Về hình phạt:

[4.1] Về hình phạt chính:

Hội đồng xét xử xét thấy, các bị cáo đều là đối tượng nghiện ma túy lâu năm, không thể tự cải tạo, cần thiết phải cách ly ra khỏi xã hội một thời gian nhất định mới đủ để cải tạo giáo dục riêng cũng như phòng ngừa chung trong xã hội. Vì vậy, cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với các bị cáo.

Trong vụ án này, các bị cáo phạm tội thuộc trường hợp đồng phạm giản đơn: Rủ nhau mua ma túy về sử dụng chung, không có sự bàn bạc, phân công cụ thể nên trách nhiệm hình sự phải chịu là tương đương nhau.

Khi xem xét lượng hình nhận thấy: Bị cáo H từng bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc nên cần áp dụng một hình phạt cao hơn mức khởi điểm của khung hình phạt với bị cáo mới đảm bảo tính răn đe, giáo dục. Bị cáo M có hai tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nhưng có một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự và đã nhiều lần bị kết án, bị áp dụng biện pháp xử lý vi phạm hành chính về hành vi liên quan tới ma túy, nên đối với bị cáo M cần đưa ra mức hình phạt nghiêm khắc hơn so với bị cáo H.

[4.2] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy các bị cáo là người nghiện ma túy, không có thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng:

- 01 (một) phong bì được niêm phong theo quy định, bên trong có chứa ma tuý là vật nhà nước cấm lưu hành; 02 (hai) xilanh kim tiêm và 01 (một) lọ novocain không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu, tiêu hủy.

- 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade màu đen, biển kiểm soát 11B1-xxxxx: Quá trình điều tra và xét xử xác định được: Chiếc xe là của ông Vũ Gia C mua năm 2008. Ông C không biết việc bị cáo sử dụng xe để đi mua ma túy. Ngày 18/10/2023, ông C có Đơn xin lại tài sản. Theo quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử xét thấy cần trả lại chiếc xe trên cho ông C.

[6] Về án phí:

Bị cáo Hoàng Quang M phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo Hoàng Văn H là người dân tộc thiểu số ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, có đơn xin miễn án phí nên cần áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án miễn án phí cho bị cáo.

[7] Về những vấn đề khác:

[7.1] Về nguồn gốc số ma túy, H và M khai nhận được mua với một người đàn ông không quen biết, việc mua bán không ai biết và chứng kiến nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố C không đủ căn cứ để mở rộng điều tra vụ án.

[7.2] Xét thấy đề nghị của Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố C về tội danh, hình phạt, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ, quan điểm xử lý vật chứng là phù hợp với tính chất, mức độ và hành vi phạm tội của các bị cáo Hoàng Văn H, Hoàng Quang M nên cần được chấp nhận.

Xét ý kiến của người bào chữa cho bị cáo H về mức hình phạt, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, quan điểm xử lý vật chứng, án phí là đúng quy định pháp luật, Hội đồng xét xử sẽ xem xét, cân nhắc khi lượng hình.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Các bị cáo Hoàng Văn H, Hoàng Quang M phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Hoàng Văn H 13 (mười ba) tháng tù.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Hoàng Quang M 18 (mười tám) tháng tù.

Thời gian chấp hành án đối với các bị cáo được tính kể từ ngày 24/7/2023.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự xử:

- Tịch thu, tiêu hủy:

+ 01 (một) phong bì niêm phong mặt trước ghi: “Số 387/KL-KTHS. Hoàn mẫu sau giám định vụ Hoàng Quang M và Hoàng Văn H, có hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy, bắt ngày 24/7/2023” (Kèm theo Kết luận giám định số 387/KL - KTHS, ngày 31/7/2023 của Phòng K Công an tỉnh C);

+ 02 (hai) xilanh kim tiêm chưa qua sử dụng;

+ 01 (một) lọ Novocain chưa qua sử dụng;

- Trả lại cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - ông Vũ Gia C (sinh năm: 1956; Địa chỉ: Tổ F, phường s, thành phố C, tỉnh C): 01 (một) xe mô tô màu đen, bên ngoài có chữ Honda Airblade, biển kiểm soát 11B1-xxxxx, số khung: RLHJF18078Y622749, số máy: JF18E5224600, xe cũ đã qua sử dụng (đăng ký lần đầu năm 2008). Kiểm tra thực tế yên xe có đường rách. Xe có số khung số máy trùng khớp với phiếu trả lời xác minh phương tiện giao thông cơ giới đường bộ ngày 25/7/2023 của Công an thành phố C cung cấp (có 01 chìa khóa xe kèm theo).

Xác nhận số vật chứng này hiện nay đang nằm tại kho tang vật của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố C, tỉnh C theo Biên bản giao, nhận vật chứng số 06 ngày 25/10/2023.

3. Về án phí:

Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án: Miễn án phí cho bị cáo Hoàng Văn H.

Áp dụng Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án buộc bị cáo Hoàng Quang M phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm để sung công quỹ Nhà nước.

4. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 332, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án về những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

23
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 154/2023/HS-ST

Số hiệu:154/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cao Bằng - Cao Bằng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/11/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về