TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẮC NINH, TỈNH BẮC NINH
BẢN ÁN 153/2022/HS-ST NGÀY 20/07/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 20/7/2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh B xét xử sơ thẩm công khai hình thức trực tuyến vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 158/2022/TLST- HS ngày 16/6/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 155/2022/QĐXXST- HS ngày 05/7/2022 đối với bị cáo:
Trần Danh H, sinh năm 1997;
Nơi cư trú: Thôn P, xã Đ, huyện G, tỉnh B; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá (học vấn): 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Danh C, sinh năm 1967 và bà Phạm Thị M, sinh năm 1971; vợ: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Bản án số 16/2018/HSST ngày 05/3/2018 của Tòa án nhân dân huyện Thuận Thành, tỉnh B xử phạt 24 tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”. Ngày 23/4/2019, chấp hành xong hình phạt tù. Đã nộp án phí HSST ngày 02/8/2018; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/3/2022 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh B; có mặt ở điểm cầu trực tuyến tại Trại tạm giam Công an tỉnh B.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 13 giờ 30 phút ngày 11/3/2022, tại khu L, phường V, TP.B, tỉnh B, đội CSĐT tội phạm về ma túy Công an TP.B bắt quả tang đối tượng Trần Danh H đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.
Vật chứng thu giữ: Thu dưới đất ngay cạnh vị trí H đứng 01 hộp giấy màu trắng kích thước (11x11x 3) cm bên trong có 09 túi nilong, trong đó có 04 túi nilong màu xanh và 01 túi nilong màu hồng bên trong mỗi túi đều chứa 2 viên nén màu đỏ; 04 túi nilong màu trắng bên trong mỗi túi đều chứa chất tinh thể màu trắng. Cơ quan Công an đã cho vào phong bì thư niêm phong dán kín, trên mép dán có chữ ký của đối tượng và người làm chứng theo quy định của pháp luật.
Tại Kết luận giám định số 242/KLGĐMT-PC09 ngày 14/3/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B kết luận:
- Các viên nén màu đỏ bên trong phong bì thư gửi giám định có khối lượng 0,9524 gam; là ma túy; Loại ma túy: Methamphetamine.
- Chất tinh thể màu trắng bên trong phong bì thư gửi giám định có khối lượng 2,1299 gam; là ma túy; Loại ma túy: Methamphetamine.
Methamphetamine là chất ma túy được quy định tại Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ ban hành các danh mục chất ma túy và tiền chất.
Tại Cơ quan CSĐT Công an thành phố B, H khai nhận như sau: Buổi trưa ngày 11/3/2022, Hà đi taxi của một người không quen biết từ nhà ở thôn P, xã Đ, huyện G, tỉnh B lên khu L, phường V, thành phố B có việc. Sau đó, do có nhu cầu sử dụng ma túy nên H đã ra khu vực gần công viên khu L, phường V, TP.B tìm mua ma túy. Tại đây, H gặp một người đàn ông không quen biết và hỏi mua của người này 1.000.000 đồng tiền ma túy. Người này đồng ý và đưa cho H 01 hộp giấy màu trắng bên trong có 04 túi nilong màu xanh, 01 túi nilong màu hồng, bên trong mỗi túi đều chứa 2 viên nén màu đỏ; 04 túi nilong màu trắng bên trong mỗi túi đều chứa chất tinh thể màu trắng. Mua được ma túy, H cầm ở tay phải rồi đi bộ được khoảng 50 – 60m thì bị lực lượng Công an kiểm tra. Do sợ hãi nên H đã thả rơi hộp ma túy xuống đất ngay tại vị trí Hà đứng. Cơ quan Công an đã tiến hành thu giữ số ma túy trên. H khai nhận số ma túy trên H mua với mục đích để sử dụng cho bản thân.
* Tại cáo trạng số 97/CT-VKSTPBN ngày 16/6/2022 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh B đã truy tố Trần Danh H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.
* Tại phiên toà, bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.
* Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa, giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo. Luận tội và đề nghị như sau:
- Tuyên bố bị cáo Trần Danh H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;
- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Trần Danh H từ 36 tháng đến 42 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù, được tính từ ngày 11/3/2022.
Hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.
- Về việc xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.
Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì đựng mẫu vật còn lại sau giám định theo kết luận giám định số 242A/KLGĐMT-PC09 ngày 14/3/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B;
*. Sau khi nghe bản luận tội của Kiểm sát viên, bị cáo không có ý kiến tranh luận và bào chữa, mà thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình là đúng như bản luận tội đã nêu.
Lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ và miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra và tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Nhận thấy, tại phiên toà hôm nay bị cáo Trần Danh H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai của bị cáo hoàn toàn phù hợp với nội dung bản cáo trạng, lời khai của người làm chứng, biên bản phạm pháp quả tang, vật chứng đã được thu hồi, kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Đã có đủ cơ sở để xác định: Hồi 13 giờ 30 phút ngày 11/3/2022, tại khu L, phường V, TP.B, tỉnh B, đội CSĐT tội phạm về ma túy Công an TP. B bắt quả tang đối tượng Trần Danh H, sinh năm 1997, HKTT ở thôn P, xã Đ, huyện G, tỉnh B đang có hành vi tàng trữ trái phép 3,0823 gam ma túy Methamphetamine để sử dụng cho bản thân. Hành vi của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma túy. Bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội, nhận thức rõ hành vi của mình bị pháp luật cấm, thấy trước được tác hại của hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy nhưng vẫn thực hiện để về sử dụng, chứng tỏ bị cáo thể hiện sự coi thường pháp luật. Khi thực hiện tội phạm, bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, đạt độ tuổi theo luật định. Do đó hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự đúng như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B đã truy tố.
[2]. Về nhân thân, tính chất, mức độ của tội phạm, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:
Nhận thấy, dù bị cáo không có tình tiết tăng nặng nào, nhưng tính chất và mức độ tội phạm của bị cáo gây ra là nguy hại lớn cho xã hội, ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự an toàn xã hội, gây bức xúc, phẫn nộ và hoang mang trong quần chúng nhân dân; ngoài ra, bị cáo có nhân thân xấu. Do đó, cần phải có mức hình phạt thật nghiêm tương ứng, cho bị cáo cách ly xã hội một thời gian, để có tác dụng giáo dục bị cáo nói riêng, răn đe phòng ngừa chung, không tạo ra tiền lệ xấu, ngăn chặn sự gia tăng loại tội phạm nguy hiểm này và góp phần làm trong sạch, lành mạnh đời sống xã hội và niềm tin vào pháp luật của nhân dân.
Tuy nhiên, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Do đó, khi lượng hình cũng cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
[3]. Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự thì còn có thể phạt tiền đối với bị cáo. Tuy nhiên, xét thấy bị cáo không có thu nhập và bị nghiện ma túy nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo là phù hợp.
[4]. Về việc xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự, xét thấy số vật chứng, là: 01 phong bì đựng mẫu vật còn lại sau giám định theo kết luận giám định số 242A/KLGĐMT-PC09 ngày 14/3/2022 của Phòng KTHS Công an tỉnh B là vật cấm tàng trữ, lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy.
[5]. Về các vấn đề khác: Đối với người đàn ông bán ma túy cho Hà ở khu L, phường V, thành phố B, tỉnh B, Hà không quen biết người này, không biết tên tuổi, địa chỉ cụ thể ở đâu. Cơ quan CSĐT công an thành phố B đã xác minh nhưng chưa làm rõ được, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau. Do đó, không đề cập xem xét.
[6]. Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự; Điều 329 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.
1.1. Tuyên bố bị cáo Trần Danh H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
1.2. Xử phạt bị cáo Trần Danh H 36 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù, được tính từ ngày 11/3/2022.
Tiếp tục tạm giam bị cáo với thời hạn 45 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, để đảm bảo việc thi hành án.
2. Về việc xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.
Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì đựng mẫu vật còn lại sau giám định theo kết luận giám định số 242A/KLGĐMT-PC09 ngày 14/3/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B;
Toàn bộ vật chứng nêu trên được mô tả theo đúng như biên bản giao nhận vật chứng ngày 13/6/2022 tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố B.
3. Về án phí: Căn cứ vào Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 153/2022/HS-ST
Số hiệu: | 153/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Bắc Ninh - Bắc Ninh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 20/07/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về