TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THANH XUÂN - THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 153/2020/HS-ST NGÀY 29/07/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 29 tháng 07 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 179/2020/HSST ngày 06 tháng 07 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 229/HSST-QĐ ngày 15 tháng 07 năm 2020 đối với bị cáo:
VŨ HỒNG H, sinh năm 1972 tại Hà Nội; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Số 2, ngõ 139, đường Đ, phường C, quận Đ, Hà Nội; Tạm trú: Phòng 101, nhà E, phường T, quận T, Hà Nội; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông Vũ Bác H và bà Nguyễn Thị M; Có vợ là: Nguyễn Thị H và 02 con; Tiền án: Không; Tiền sự: Ngày 08/01/2020, Công an phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân xử phạt vi phạm hành chính về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy (chưa hết thời hiệu); Về nhân thân: Ngày 10/09/1991, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xử phạt 08 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời hạn thử thách 16 tháng kể từ ngày tuyên án về tội “Trộm cắp tài sản” (đã xóa án tích); Ngày 08/04/1992, Toàn án nhân dân quận Đống Đa, Hà Nội xử phạt 08 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, cộng 08 tháng tù của bán án số 347/HSPT ngày 10/09/1991 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 16 tháng tù (đã xóa án tích); Ngày 31/03/2010, Tòa án nhân dân quận Thanh Xuân xử phạt 07 tháng tù về tội “Chống người thi hành công vụ” (đã xóa án tích); Bị bắt quả tang ngày 23/03/2020, tạm giữ ngày 23/03/2020, tạm giam ngày 01/04/2020. Hiện đang tạm giam tại Trạm tạm giam số 2, Công an Thành phố Hà Nội - Có mặt tại phiên tòa.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Chị Nguyễn Thị H - sinh năm 1978; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Số 2, ngõ 139, đường Đ, phường C, quận Đ, Hà Nội; Tạm trú: Phòng 101, nhà E, phường T, quận T, Hà Nội - Có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 15 giờ 50 phút ngày 23/03/2020, tại khu vực ngã tư đường Hoàng Minh Giám - Lê Văn Lương thuộc phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội, tổ công tác Công an thành phố Hà Nội đang làm nhiệm vụ, phát hiện Vũ Hồng H điều khiển xe ô tô nhãn hiệu Huyndai I10 màu đỏ, BKS 30E-978.xx có biểu hiện nghi vấn nên đã yêu cầu kiểm tra. Quá trình kiểm tra, H bước từ trên xe xuống và thả xuống đất 01 túi nilon chứa tinh thể màu trắng, sau đó H tự nhặt lên và giao nộp cho tổ công tác, đồng thời khai nhận là ma túy tổng hợp dạng “đá”, H mua để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác đã lập biên bản thu giữ tang vật và đưa H về trụ sở làm việc.
Tại bản Kết luận giám định số 2461/KLGĐ-PC09 ngày 31/03/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành số Hà Nội kết luận: “Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilon (thu giữ của Vũ Hồng H) là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,266 gam”.
Tại cơ quan điều tra, Vũ Hồng H khai nhận: Khoảng 15 giờ 00 ngày 23/03/2020, H điều khiển xe ô tô đến quán nước gần ngõ 107 Nguyễn Chí Thanh, Ba Đình, Hà Nội. Tại đây H gặp D là bạn xã hội của H, được D đưa cho 01 túi nilon bên trong chứa tinh thể màu trắng. H cầm và cất vào trong xe với mục đích để sử dụng, sau đó lái xe ô tô đi đến khu vực ngã tư Hoàng Minh Giám - Lê Văn Lương thì bị Cơ quan Công an kiểm tra, H tự lấy gói ma túy ra giao nộp nhưng bị rơi xuống đất nên H đã nhặt lên giao nộp cho tổ công tác.
Tại bản cáo trạng số 142/CT-VKS ngày 03 tháng 07 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Xuân truy tố Vũ Hồng H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên toà sau khi phân tích vai trò, tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo kết luận: Giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c Khoản 1 Điều 249, điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt: Vũ Hồng H từ 14 đến 16 tháng tù. Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo; Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong bên trong chứa 0,266 gam Methamphetamine; Trả lại bị cáo 01 giấy phép lái xe mang tên Vũ Hồng H số 01014103751x, 01 căn cước công dân mang tên Vũ Hồng H số 0010720215xx, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vivo 1906 màu đỏ.
Tại phiên toà: Bị cáo Vũ Hồng H giữ nguyên lời khai tại cơ quan điều tra, thừa nhận nội dung, tội danh cáo trạng Viện kiểm sát truy tố là đúng Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm trở về với gia đình và xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1]. Về tố tụng: Về các tài liệu, chứng cứ do Cơ quan điều tra Công an quậnThanh Xuân, Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Xuân thu thập; về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Thanh Xuân, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Xuân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về các tài liệu, chứng cứ do cơ quan điều tra, Viện kiểm sát thu thập và không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các tài liệu, chứng cứ và hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thu thập, thực hiện đều hợp pháp.
[2]. Về tội danh: Ngày 23/03/2020, Vũ Hồng H đã có hành vi cất giữ trái phép 0,266 gam ma túy loại Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng cho bản thân, không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển hoặc sản xuất trái phép chất ma túy. Đối chiếu quy định của pháp luật, Vũ Hồng H đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.Viện kiểm sát truy tố bị cáo ra xét xử theo tội danh và điều luật đã viện dẫn là có căn cứ Pháp lý.
Theo lời khai của H, H được D là bạn xã hội (không rõ địa chỉ) cho ma túy để sử dụng. Do không xác định được nhân thân, lai lịch của D nên không có căn cứ để xử lý.
[3]. Về tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội: Ma túy là mối nguy hiểm của xã hội, bởi nó không chỉ là nguyên nhân gây ra nhiều tệ nạn xã hội, làm thiệt hại kinh tế, gây suy thoái đạo đức và lối sống mà còn là nguyên nhân làm phát sinh nhiều tội phạm nguy hiểm. Hành vi phạm tội của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước. Do tính chất nghiêm trọng của vụ án, để đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và tội phạm về ma túy nói riêng, cần thiết phải xử lý bị cáo bằng pháp luật hình sự.
[4]. Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Bị cáo có 03 tiền án, 01 tiền sự, trong đó các tiền án đã được xóa, tiền sự chưa hết thời hiệu, thể hiện bị cáo là người có nhân thân xấu, đã được cơ quan pháp luật cải tạo, giáo dục nhiều lần nhưng không chịu sửa chữa, lại tiếp tục đi vào con đường phạm tội.
Để cải tạo, giáo dục bị cáo và làm bài học răn đe người khác, cần áp dụng hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo, cần cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử có xem xét tình tiết: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo có bố mẹ đẻ là ông Vũ Bác Hanh và bà Nguyễn Thị Mùi là người có công với cách mạng, được tặng thưởng huân chương để giảm một phần hình phạt cho bị cáo theo quy định điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
[5]. Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền.
[6]. Về vật chứng: 01 phong bì niêm phong bên trong chứa 0,266 gam Methamphetamine (phòng PC09 - Công an thành phố Hà Nội đã trích thu lấy mẫu giám định 0,068 gam) thu giữ của Vũ Hồng H là chất Nhà nước cấm tàng trữ, không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu huỷ.
Ngoài ra, khi bắt giữ bị cáo, cơ quan công an còn thu giữ của bị cáo 01 xe ô tô nhãn hiệu Huyndai, loại xe Grand i10 1.2A.T, BKS 30E-978.xx, 01 chìa khóa xe ô tô, 01 giấy chứng nhận kiểm định xe ô tô BKS 30E-978.xx, 01 bản phô tô đăng ký xe mang tên Nguyễn Thị H, 01 giấy phép lái xe mang tên Vũ Hồng H số 01014103751x, 01 căn cước công dân mang tên Vũ Hồng H số 0010720215xx, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vivo 1906 màu đỏ có số Imel 1: 865635047639551, Imel 2: 865635047639544, bên trong có lắp sim số 09362341xx.
Đối với xe ô tô Huyndai BKS 30E-978.xx, qua xác minh là sản hợp pháp của chị Nguyễn Thị H (vợ bị cáo). Khi giao xe cho H, chị H không biết H sử dụng xe để tàng trữ ma túy. Xét tài sản không liên quan đến hành vi phạm tội nên cơ quan Công an đã trao trả tài sản và các giấy tờ, đồ vật liên quan gồm chìa khóa xe ô tô, giấy chứng nhận kiểm định xe ô tô và bản phô tô đăng ký xe cho chị H, chị H đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu gì về dân sự nên Hội đồng xét xử không xét.
Đối với 01 giấy phép lái xe mang tên Vũ Hồng H số 01014103751x, 01 căn cước công dân mang tên Vũ Hồng H số 0010720215xx, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vivo 1906 màu đỏ có số Imel 1: 865635047639551, Imel 2: 865635047639544, bên trong có lắp sim số 09362341xx, xét đây là tài sản và giấy tờ cá nhân của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo nhưng tạm giữ điện thoại để đảm bảo thi hành án.
[7]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 và Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
[8]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;
Căn cứ Điều 106, Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 và Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;
[1]. Xử phạt: Vũ Hồng H 14 (mười bốn) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 23/03/2020.
[2]. Về vật chứng (Hiện đang lưu giữ tại chi cục thi hành án dân sự quận Thanh Xuân theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 27/07/2020):
- Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong bên trong chứa 0,266 gam Methamphetamine (phòng PC09, Công an thành phố Hà Nội đã lấy mẫu giám định 0,068 gam) thu giữ của Vũ Hồng H.
- Trả lại bị cáo 01 giấy phép lái xe số 01014103751x mang tên Vũ Hồng H, 01 căn cước công dân số 0010720215xx mang tên Vũ Hồng H, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vivo 1906 màu đỏ có số Imei 1: 865635047639551, Imei 2:
865635047639544, bên trong có lắp sim số 09362341xx nhưng tạm giữ điện thoại để đảm bảo thi hành án.
[3]. Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
[4]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án;
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án về những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 153/2020/HS-ST
Số hiệu: | 153/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Thanh Xuân - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/07/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về