TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MAI CHÂU, TỈNH HÒA BÌNH
BẢN ÁN 15/2024/HS-ST NGÀY 05/03/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ
Ngày 05 tháng 3 năm 2024, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 06/2024/TLST-HS ngày 15 tháng 01 năm 2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 09/2024/QĐXXST-HS ngày 21 tháng 02 năm 2024 đối với bị cáo:
Nguyễn Văn H, sinh ngày 10 tháng 10 năm 1970, tại huyện M, tỉnh Hòa Bình; nơi thường trú: Tiểu khu x, thị trấn M, huyện M, tỉnh Hòa Bình; nơi tạm trú và chỗ ở hiện nay: Xóm Đ, xã Đ, huyện M, tỉnh Hòa Bình, nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 01/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn M (đã chết) và bà Ninh Thị N, sinh năm 1943; bị cáo có vợ là Hà Thị H, sinh năm 1971 và 01 con sinh năm 1997; tiền sự: Không; tiền án: 01 tiền án, ngày 20/11/2000 Nguyễn Văn H bị Tòa án nhân dân tỉnh Hòa Bình xử phạt 07 năm tù và hình phạt bổ sung phạt tiền 5.000.000 đồng sung quỹ Nhà nước theo Bản án hình sự sơ thẩm số 87/HSST, ngày 19/4/2001 Tòa án phúc thẩm tại Hà Nội bác đơn kháng cáo của Nguyễn Văn H giữ y án sơ thẩm theo Bản án hình sự phúc thẩm số 738/PTHS. Ngày 01/02/2005 chấp hành xong trở về địa phương. Ngày 16/11/2023 mới chấp hành xong án phí hình sự sơ thẩm, hình sự phúc thẩm và hình phạt bổ sung (chưa được xóa án tích); nhân thân: Ngày 20/9/1994, bị Tòa án nhân dân huyện Mai Châu xử phạt 09 tháng tù về tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy theo Bản án hình sự sơ thẩm số 17/HSST; ngày 14/8/2007 bị đưa vào cơ sở chữa bệnh bắt buộc.
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 22/7/2023, chuyển tạm giam từ ngày 31/7/2023 đến nay. Có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
1 Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Qua công tác nghiệp vụ Công an huyện Mai Châu xác định Nguyễn Văn H, sinh năm 1970, nơi tạm trú: Xóm Đồng B, xã Đ, huyện M, tỉnh Hòa Bình là đối tượng thường sử dụng trái phép chất ma túy. Khoảng 11 giờ ngày 22/7/2023, tổ công tác Công an huyện Mai Châu chủ trì phối hợp với Công an xã Đồng Tân đến nhà ở của H để kiểm tra, xác minh. Khi vào nhà tổ công tác gặp H và yêu cầu nếu có tàng trữ đồ vật hàng cấm thì tự giác giao nộp. Nguyễn Văn H đã tự giác giao nộp cho tổ công tác: 01 gói giấy màu trắng bên trong có chứa chất bột màu trắng và 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu 555 bên trong có 01 gói giấy bạc chứa 01 viên nén màu hồng. H khai nhận đó là ma túy của H tàng trữ để sử dụng. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ và niêm phong vật chứng. Tại Cơ quan Điều tra Nguyễn Văn H khai nhận về nguồn gốc số ma túy trên như sau: Khoảng 07 giờ ngày 22/7/2023 H đang đứng ở trước cửa nhà ở tại khu vực đường Quốc lộ 6 thuộc địa phận xóm Đ, xã Đ thì có 01 người đàn ông dân tộc Mông đi xe mô tô đến rồi dừng xe lại và hỏi H có mua ma túy không, H đồng ý và đưa cho người đàn ông đó số tiền 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng, thì người đàn ông đó đưa cho H 01 gói giấy màu trắng bên trong có chứa chất bột màu trắng và 01 vỏ bao thuốc lá bên trong có gói giấy bạc bên trong có chứa 01 viên nén màu hồng, tất cả đều là ma túy. Sau khi mua bán ma túy xong thì người đàn ông đó đi đâu H không biết còn H cất ma túy vào túi quần đang mặc rồi đi vào nhà nằm ngủ trong phòng. Đến trưa cùng ngày, khi H đang ở nhà thì tổ công tác đến kiểm tra, H đã tự giác giao nộp số ma túy trên.
Tại Kết luận giám định số 335/KL-KTHS ngày 28/7/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hoà Bình kết luận: Viên nén màu hồng là vật chứng thu giữ của Nguyễn Văn H có khối lượng 0,10 gam, là ma túy, loại Methamphetamine; Chất bột dạng cục màu trắng là vật chứng thu giữ của Nguyễn Văn H có khối lượng 0,07 gam, là ma túy, loại Heroine.
Tại bản Cáo trạng số: 08/CT-VKSMC ngày 15 tháng 01 năm 2024, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mai Châu truy tố Nguyễn Văn H về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mai Châu luận tội giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:
Về tội danh, hình phạt: Đề nghị tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 2 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt Nguyễn Văn H từ 13 tháng đến 15 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 22/07/2023.
2 Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là đối tượng sử dụng ma túy, không có việc làm ổn định, không có điều kiện thi hành nên không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền đối với bị cáo.
Về vật chứng của vụ án: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, đề nghị: Tuyên tịch thu toàn bộ số ma túy thu được, sau khi giám định số còn lại đã hoàn trả, để tiêu hủy.
Về vấn đề khác: Đối với người đã bán ma túy cho Nguyễn Văn H, quá trình điều tra không xác định được họ tên, tuổi, địa chỉ cụ thể, không xác định được là ai nên không có căn cứ đề nghị xử lý.
Đề nghị áp dụng khoản 1 và khoản 3 Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.
Ý kiến của bị cáo: Bị cáo đã nhận được các văn bản tố tụng của Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án, quá trình điều tra, truy tố xét xử bị cáo đã được phổ biến quyền và nghĩa vụ, không bị ép cung, mớm cung, bị cáo đồng ý với nội dung Cáo trạng và Quyết định đưa vụ án ra xét xử, bị cáo không có ý kiến tranh luận gì, bị cáo không thuê Luật sư hoặc nhờ trợ giúp viên pháp lý bào chữa cho mình, bị cáo do nghiện ma túy, tàng trữ để sử dụng, ngoài ra không có mục đích gì khác. Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Những chứng cứ xác định có tội: Bị cáo bị bắt, bị lập Biên bản bắt người phạm tội quả tang về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Tại cơ quan điều tra và phiên tòa hôm nay, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với vật chứng thu được, kết luận giám định cùng toàn bộ các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó đã có đủ căn cứ để kết luận: Khoảng 11 giờ ngày 22/7/2023, tại nhà Nguyễn Văn H, địa chỉ xóm Đ, xã Đ, huyện M, tỉnh Hòa Bình tổ công tác Công an huyện Mai Châu phối hợp với Công an xã Đồng Tân bắt quả tang Nguyễn Văn H, đang tàng trữ trái phép 0,10 gam ma túy, loại Methamphetamine và 0,07 gam ma túy, loại Heroine. Tổng khối lượng hai chất ma túy H tàng trữ và phải chịu trách nhiệm là 0,17 gam. Kết quả điều tra xác định số ma túy trên là do H mua với một người đàn ông dân tộc Mông không quen biết trước cửa nhà ở của H vào sáng ngày 22/7/2023 với số tiền 200.000 đồng mục đích là để sử dụng cho bản thân, ngoài ra không có mục đích khác.
[2] Chứng cứ xác định không có tội: Không có.
[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội: Bị cáo nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật, biết rõ tác hại của ma tuý đối với bản thân, gia đình và xã hội, trong khi Nhà nước và toàn thể xã hội đang tìm mọi biện pháp phòng, chống tiến tới loại trừ tệ nạn ma tuý ra khỏi cộng đồng bởi tác hại rất lớn của nó. Bị cáo đã từng bị kết án, bị đưa đi cai nghiện bắt buộc nhưng không có 3 tiến bộ, nay lại tiếp tục phạm tội. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội đã xâm phạm trực tiếp đến chính sách quản lý Nhà nước về chất ma túy.
[4] Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Nguyễn Văn H có 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “tái phạm” theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan Điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình và bị cáo có mẹ là người có công với cách mạng được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng Huân Chương kháng chiến Hạng Nhì là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[5] Căn cứ quy định của Bộ luật Hình sự, cân nhắc tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội, nguyên nhân, hậu quả của hành vi phạm tội, khối lượng chất ma túy bị cáo tàng trữ ít 0,17 gam, tiền án, tiền sự, nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của bị cáo nêu trên, xét cần xử phạt tù có thời hạn với mức án nghiêm khắc, nhưng phù hợp đối với bị cáo, nhằm giáo dục riêng và phòng ngừa chung.
[6] Về tội danh, điều luật áp dụng, hình phạt, hình phạt bổ sung, xử lý vật chứng, tạm giam sau khi tuyên án và về các vấn đề khác mà đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa đã có ý kiến đề nghị nêu trên. Xét thấy có căn cứ phù hợp quy định pháp luật cần xử lý, giải quyết theo hướng đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát.
[7] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử: Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.
[8] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn H phải nộp án phí theo quy định tại Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại các Điều 331, 332, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Về tội danh, hình phạt:
Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự:
- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý.
4 - Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H 13 (mười ba) tháng tù. Thời hạn tính từ ngày tạm giữ 22/7/2023.
2. Về xử lý vật chứng:
Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tuyên:
- Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số Heroine và Methampetamine sau khi giám định số còn lại đã hoàn trả, được niêm phong trong 01 phong bì.
(Vật chứng nêu trên hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mai Châu, tình trạng, đặc điểm cụ thể của vật chứng được ghi trong Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản số: 25/THA ngày 28/02/2024 giữa bên giao Công an huyện Mai Châu, bên nhận Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mai Châu).
3. Về án phí:
Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
- Bị cáo Nguyễn Văn H phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo:
Áp dụng Điều 331, 332, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự.
- Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án bị cáo có quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân tỉnh Hòa Bình để xét xử phúc thẩm.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 15/2024/HS-ST
Số hiệu: | 15/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Mai Châu - Hoà Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 05/03/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về