Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 15/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUY ĐỨC, TỈNH ĐẮK NÔNG

BẢN ÁN 15/2023/HS-ST NGÀY 10/05/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 10 tháng 5 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tuy Đức, tỉnh Đắk Nông xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 17/2023/TLST - HS ngày 21 tháng 4 năm 2023, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 06/2023/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 4 năm 2023 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Quốc H, tên gọi khác: Không; Sinh năm 1988, tại tỉnh Hà Tĩnh; Nơi cư trú: Tổ dân phố A, thị trấn Er, huyện E, tỉnh Đắk Lắk; Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ văn hóa: 7/12; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Duy S (đã chết) và bà Lê Thị C (sinh năm 1964)hiện đang sống tại tổ dân phố A, thị trấn Er, huyện E, tỉnh Đắk Lắk; Bị cáo chưa có vợcon; Tiền án; tiền sự: Không.

Nhân thân:

Tại bản án số 24/2008/HSSTngày 17/01/2008, Tòa án nhân dân huyện Ea H’leo, tỉnh Đắk Lắk xử phạt 06 tháng tù, về tội “Trộm cắp tài sản”, bị cáo đã chấp hành xong hình phạt và được xóa án tích.

Tại bản án số 31/2016/HSSTngày 31/10/2016, Tòa án nhân dân huyện Ea H’Leo, tỉnh Đắk Lắk xử phạt 01 năm 06 tháng tù, về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, bị cáo đã chấp hành xong hình phạt và được xóa án tích theo quy định; Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 08/12/2022 sau đó chuyển tạm giam đến nay - Có mặt.

2. Bùi Quốc T, tên gọi khác: Tý; Sinh năm 1991, tại tỉnh Đồng Nai; Nơi cư trú: Buôn B, thị trấn Er, huyện E, tỉnh Đắk Lắk;Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ văn hóa: 6/12; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh;Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Bùi Văn M (sinh năm 1945) và bà Phạm Thị D1 (sinh năm 1952)hiện đang sống tại Buôn B, thị trấn Er, huyện E, tỉnh Đắk Lắk; Bị cáo có vợ là Hoàng Thị Cẩm T1, sinh năm 1994hiện đang sống tại Tổ dân phố C, thị trấn Er, huyện E, tỉnh Đắk Lắk và 01 con sinh năm 2013; Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân:

Tại bản án số 80/2008/HSSTngày 16/9/2008, Tòa án nhân dân huyện Ea H’leo, tỉnh Đắk Lăk xử phạt 01năm02 tháng tù, về tội “Trộm cắp tài sản”, bị cáo đã được xóa án tích.

Tại bản án số 85/2008/HSSTngày 19/9/2008, Tòa án nhân dân huyện Ea Hleo, tỉnh Đắk Lắk xử phạt 03tháng tù, về tội “Trộm cắp tài sản”, bị cáo đã được xóa án tích.

Tại bản án số 20/2009/HSSTngày 26/02/2009 TAND tỉnh Đắk Lắk tuyên phạt 02 năm 03 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích” (tổng hợp hình phạt với bản án số 80/2008/HSST và 85/2008/HSST là 03 năm 08 tháng tù.

Tại bản án số 43/2010/HSST, ngày 03/12/2010, TAND huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa tuyên phạt 04 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” và tổng hợp hình phạt với bản án số 20/2009 là 04 năm tù, bị cáo đã chấp hành xong hình phạt và được xóa án tích.

Tại bản án số 37/2017/HSST, ngày 29/5/2017, TAND huyện Ea H’leo, tỉnh Đăk Lăk tuyên phạt 05 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự, bị cáo đã được xóa án tích.

Ngày 07/6/2018, bị TAND huyện Ea H’leo, tỉnh Đắk Lắk tuyên áp dụng biện pháp cai nghiện bắt buộc 20 tháng theo Quyết định số 30/2018/QĐ- TA, chấp hành xong ngày 22/7/2019.

Ngày 05/6/2020, tiếp tục bị TAND huyện Ea H’leo, tỉnh Đắk Lắk tuyên áp dụngbiện pháp cai nghiện bắt buộc 22 tháng theo Quyết định số 06/2020/QĐ-TA, chấp hành xong ngày 24/10/2021, bị cáo đã được xóa tiền sự; Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 08/12/2022 sau đó chuyển tạm giam đến nay - Có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Anh Hoàng Trần Thanh D1, sinh năm 1987;vắng mặt. Địa chỉ: Tổ 1, thị trấn K, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông;

Anh Tạ Văn N2, sinh năm 1978;vắng mặt.

Địa chỉ: Thôn 13, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông;

Người làm chứng: Anh Nguyễn Lê H2, sinh năm: 1996; vắng mặt. Địa chỉ: Bon Đ, xã ĐN, huyện T, tỉnh Đắk Nông.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 08 giờ ngày 08/12/2022, T đến phòng trọ rủ H đi mua ma túy về để sử dụng thì H đồng ý. T mượn chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, số loại Exciter, biển kiểm soát: 48B1- 379.xx của anh Hoàng Trần Thanh D1, chở H đi tìm mua ma túy ở khu vực thành phố Gia Nghĩa nhưng không có nên H nói vào làng M, thuộc xã Đ, Huyện T để mua ma túy. Sau đó, T điều khiển xe mô tô chở H từ thành phố G đến xã Đ, Huyện T. Khi vào tới bản N, xã Đ, cả hai gặp một người đàn ông (không rõ nhân thân lai lịch). T dừng xe để H đến nhờ người đàn ông mua dùm cho 1.000.000 đồng ma túy thì người này đồng ý. H đưa cho người đàn ông 1.000.000 đồng, người này dẫn H và T đến khu vực vườn điều thuộc bản N và đi vào phía trong lấy ra một gói ma túy đưa cho H. Sau đó, H và T đi bộ vào vườn điều, lấy ma túy ra sử dụng. Số ma túy còn lại, H gói trong túi nilon màu vàng rồi dùng lửa hàn lại, bỏ vào bao nilon đựng kim tiêm và cất vào túi áo khoác trên người, mang về để tiếp tục sử dụng. Sau đó, T tiếp tục điều khiển xe mô tô chở H đi về hướng thành phố G, khi được một đoạn thì xe bị hư nên cả hai đi vào tiệmsửa xe của anh Lê H, thuộc bon Đ, xã Đ, Hện T để sửa xe thì bị Cơ quan CSĐT Công an Huyện T phối hợp Công an xã Đ kiểm tra và bắt quả tang.

Vật chứng đã thu giữ gồm:01 gói nilon màu vàng bên trong chứa chất rắn màu trắng nghi là Heroin; 02 ống kim tiêm đã qua sử dụng;01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại Exciter, biển số 48B1-379.xx.

Tại Kết luận giám định số 356/KLMT-PC09 ngày 13/12/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Nông đã kết luận:

Chất rắn màu trắng đựng trong 01 gói nilon màu vàng được niêm phong trong phong bì thư gửi giám định là chất ma túy, có khối lượng mẫu là 2,0160 gam; là Heroine (hoàn lại sau giám định là 1,9653 gam).

Tại bản Cáo trạng số: 16/CT-VKS-TĐ ngày 05/4/2023, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Tuy Đức đã truy tố bị cáo Nguyễn Quốc H và Bùi Quốc Tvề tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của BLHS.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Đức vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Nguyễn Quốc H và Bùi Quốc T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của BLHS và đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX):

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Quốc H và Bùi Quốc T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của BLHS; Đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Quốc H và Bùi Quốc T mỗi bị cáo từ 02 (hai) năm 06 tháng đến 03 (ba) năm tù.Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt, tạm giữ ngày 08/12/2022.

Về vật chứng của vụ án: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 BLHS, điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS), đề nghị: Tịch thu tiêu hủy1,9653 gam ma túy là Heroin (hoàn lại sau giám định); 01 ống kim tiêm chưa qua sử dụng; 01 ống nhựa nước cất chưa qua sử dụng.

Căn cứ điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Chấp nhận việc Cơ quan CSĐT Công an Hện Tuy Đức trả 01 chiếc xe mô tô hiệuYamaha, loại Exciter, biển kiểm soát: 48B1- 379.xx cho anh Hoàng Trần Thanh D1 là chủ sở hữu hợp pháp.

Các bị cáo không có ý kiến tranh luận gì chỉ đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Bị cáo Nguyễn Quốc H và Bùi Quốc T là người có năng lực trách nhiệm hình sự. Vào khoảng 11 giờ 00 phút, ngày 08/12/2022; Bùi Quốc T đã sử dụng xe máy chở Nguyễn Quốc Hđi mua ma túy của người đàn ông (không rõ nhân thân lai lịch) ở Bon Đ, xã Đ, huyện T, tỉnh Đắk Nông về sử dụng; Số ma túy các bị cáo tàng trữ là 2,0160 gam, là Heroin; H cất giấu trong người với mục đích để sử dụng chung với T. Khi T điều khiển xe chở H cùng số ma túy trên đi đến tiệm sửa xe của anh Lê H ở xã Đ thì bị Cơ quan CSĐT Công an Huyện Tuy Đức phát hiện và bắt quả tang.

Như vậy, hành vi của Nguyễn Quốc H và Bùi Quốc T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của BLHS.

Tại điểm c khoản 1 Điều 249 của BLHS quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

… c)…Heroin có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

…”.

Việc Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Đức tỉnh Đắk Nông truy tố bị cáo Nguyễn Quốc H và Bùi Quốc T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của BLHS là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó đã xâm phạm đến chế độ quản lý Nhà nước về việc cất giữ chất ma túy; làm mất trật tự an ninh tại địa phương, gây nhiều hậu quả xấu cho bản thân, gia đình và xã hội.Vì vậy, bị cáo Nguyễn Quốc H và Bùi Quốc T phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình.

[4] Về tình tiết tăng nặng: Không.

[5] Về các tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Quốc H và Bùi Quốc T đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51của BLHS; HĐXX sẽ xem xét khi quyết định hình phạt đối với các bị cáo.

[6] Xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội do các bị cáo thực hiện, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cũng như nhân thân của các bị cáo, HĐXX xét thấy cần phải cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới đủ tác dụng răn đe giáo dục đối với các bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

Trong vụ án này hai bị cáo cùng tham gia thực hiện việc tàng trữ trái phép chất ma túy, có vai trò như nhau nên mức án áp dụng dành cho hai bị cáo bằng nhau là phù hợp.

[7] Việc Viện kiểm sát nhân dân Huyện Tuy Đức đề nghị mức án đối với các bị cáo Nguyễn Quốc H và Bùi Quốc T là phù hợp, cần chấp nhận.

[8] Về vật chứng của vụ án:

[8.1] Đối với 1,9653gam ma túy, là Heroin (Hoàn lại sau giám định);01 ống kim tiêm chưa qua sử dụng; 01 ống nhựa nước cất chưa qua sử dụng là vật chứng của vụ án, không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy;

[8.2] Đối với 01 chiếc xe mô tô hiệuYamaha, loại Exciter, biển kiểm soát 48B1- 379.xx. Qua quá trình điều tra, xác định chiếc xe nói trên là tài sản hợp pháp của anh Hoàng Trần Thanh D1. Việc T mượn xe mô tô đi mua ma túy không nói cho anhD1 biếtnên Cơ quan CSĐT Công an huyện Tuy Đức đã trả lại cho anh D1 là người sở hữu hợp pháp,là có căn cứ nên cần chấp nhận;

[9] Đối với người đàn ông (không xác định được nhân thân lai lịch) đã bán ma túy cho H, Cơ quan CSĐT Công an huyện Tuy Đức tách ra tiếp tục xác minh, khi có căn cứ sẽ xử lý sau.

[10] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[11] Về quyền kháng cáo: Các bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án theo quy định pháp luật;

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Quốc H và Bùi Quốc T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của BLHS.

Xử phạt Nguyễn Quốc H 02(hai) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt, tạm giữ ngày 08/12/2022.

Xử phạt Bùi Quốc T 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt, tạm giữ ngày 08/12/2022.

2. Về vật chứng của vụ án: Căn cứ Điều 47 BLHS; Điều 106 của BLTTHS:

2.1. Chấp nhận việc Cơ quan CSĐT Công an huyện Tuy Đức đã trả01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại Exciter, biển kiểm soát48B1-379.xxcho anh Hoàng Trần Thanh D1.

2.2. Tịch thu tiêu hủy 1,9653gam ma túy, là Heroin (Hoàn lại sau giám định);

01 ống kim tiêm chưa qua sử dụng; 01 ống nhựa nước cất chưa qua sử dụng;

(Đặc điểm vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 20/4/2023 giữa Cơ quan CSĐT Công an Huyện Tuy Đức và Chi cục Thi hành án dân sự Huyện Tuy Đức).

3. Về án phí:Áp dụng khoản 1, 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136BLTTHS; Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Buộc bị cáo Nguyễn Quốc H và Bùi Quốc T mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí Hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án phần liên quan đến mình trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

56
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 15/2023/HS-ST

Số hiệu:15/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đắk Nông - Đăk Nông
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về