Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 15/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 15/2022/HS-ST NGÀY 26/10/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26/10/2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Đ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 15/2022/TLST- HS ngày 10/10/2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 15/2022/QĐXXST- HS ngày 13/10/2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lò Thị K, tên gọi khác: Không, sinh năm: 1974, tại Đ.

Nơi cư trú: Bản X, xã T A, huyện Đ, tỉnh Đ.

Nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: Không; dân tộc: Thái; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lò Văn X (Đã chết) và bà: Lò Thị P (Đã chết); chồng: Lò Văn H, sinh năm 1968; con: Bị cáo có 02 con, con lớn sinh năm 1990, con nhỏ sinh năm 1994; Tiền án: Không; tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 30/11/1999 bị TAND huyện Đ xử phạt 18 tháng tù về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”, ngày 15/3/2000 TAND tỉnh Lai Châu xét xử phúc thẩm và sửa bản án sơ thẩm xử phạt bị cáo 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 36 tháng. Ngày 29/7/2004 bị TAND huyện Đ xử phạt 30 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, ngày 02/9/2006 chấp hành xong hình phạt tù. Ngày 15/3/2007 bị TAND huyện Đ xử phạt 13 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Các bản án nay đã được xóa án tích; chưa bị xử lý hành chính; bị bắt từ ngày 21/7/2022 "có mặt".

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 09 giờ ngày 21/7/2022, bị cáo đi bộ từ nhà đến khu vực thuộc Bản X, xã T A, huyện Đ với mục đích là mua ma túy về cho chồng xử dụng. Bị cáo gặp và mua được 01 gói Heroine với giá tiền là 50.000đ và 03 viên hồng phiến với gia tiền là 20.000đ của một người đàn ông dân tộc Thái khoảng 30 tuổi không biết tên và địa chỉ. Sau đó bị cáo về nhà cất gói Heroine ở trên mặt bàn đầu giường ngủ nhà bị cáo và lấy 01 viên hồng phiến để vào túi giả da màu nâu có dây đeo để trên giường ngủ, 02 viên hồng phiến còn lại bị cáo gói lại như cũ rồi giấu ở dưới đệm đầu giường ngủ. Hồi 13 giờ 45 phút cùng ngày khi bị cáo đang ở nhà thì bị tổ công tác đội cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế, ma túy Công an huyện Đ kiểm tra thì bị cáo chạy đến chố cất gói Heroine và thả qua cửa sổ buồng ngủ, như bị tổ công tác phát hiện và yêu cầu bị cáo nhặt gói Heroine lên giao nộp cho tổ công tác.

Cùng ngày tổ công tác khám xét nơi ở của bị cáo, thu giữ 01 viên hồng phiến ở trong túi giả da của bị cáo để trên giường ngủ và 02 viên hồng phiến ở dưới đệm giường ngủ của bị cáo.

Tại biên bản mở niêm phong, xác định khối lượng ngày 21/7/2022 đã xác định:

- Số chất bột màu trắng thu giữ của bị cáo có khối lượng là 0,18 gam;

- Số viên nén màu hồng thu giữ của bị cáo có khối lượng là 0,32 gam;

Tổng khối lượng hai chất ma túy thu giữ của bị cáo là 0,5 gam Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Tại bản kết luận giám định số: 1061/KL-KTHS ngày 29/7/2022, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đ đã kết luận:

- Mẫu chất bột màu trắng thu giữ của Lò Thị K gửi giám định là Heroine;

- Mẫu viên nén màu hồng thu giữ của Lò Thị K gửi giám định là Methamphetamine;

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận của Hội đồng giám định nêu trên.

Tại bản cáo trạng số: 222/CT-VKSĐB ngày 10/10/2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ đã truy tố bị cáo Lò Thị K về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điểm i Khoản 1 Điều 249/BLHS.

Tại phiên tòa, đại diện VKSND huyện Đ vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội danh, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điểm i Khoản 1 Điều 249/BLHS; Điểm s Khoản 1 Điều 51/BLHS; Điều 38/BLHS. Đề nghị xử phạt bị cáo từ 18 đến 24 tháng tù. Áp dụng Điểm c Khoản 1 Điều 47/BLHS, Điểm a Khoản 2 Điều 106/BLTTHS về xử lý vật chứng. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí HSST.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Tôi biết hành vi của tôi là vi phạm pháp luật, tôi nhận tội và xin Hội đồng xét xử xem xét hoàn cảnh gia đình của tôi, cho tôi xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi của bị cáo: Ngày 21/7/2022 bị cáo đi mua ma túy về để cho chồng sử dụng, khi bị cáo đang ở nhà thì bị bắt quả tang 01 gói Heroine có khối lượng 0,18 gam và 03 viên Methamphetamine có khối lượng 0,32 gam. Hành vi của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội qủa tang, biên bản mở niêm phong xác định khối lượng và lấy mẫu giám định, kết luận giám định, kết luận điều tra, các bản cung có trong hồ sơ vụ án cũng như cáo trạng đã truy tố. Với hành vi và khối lượng ma túy bị thu giữ thì bị cáo đã phạm vào tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại Điểm i Khoản 1 Điều 249/BLHS. Cáo trạng truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, có căn cứ pháp luật. Bị cáo là người có đủ năng lực để chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi phạm tội của mình.

[2]. Về tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, làm ảnh hưởng đến trật tự trị an, an toàn xã hội; đã xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy. Bởi vì, ma túy là một hiểm họa của nhân loại, đồng thời ma túy cũng là nguyên nhân của nhiều loại tội phạm khác. Chính vì thế mà Nhà nước ta đã nghiêm cấm mọi hành vi có liên quan đến ma túy. Bị cáo nhận thức được tác hại của ma tuý, nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, song bị cáo vẫn cố tình thực hiện. Tội phạm mà bị cáo vi phạm là nghiêm trọng, nên cần phải xử lý theo quy định của pháp luật.

[3]. Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Sau khi phạm tội và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điểm s Khoản 1 Điều 51/BLHS.

Để cải tạo bị cáo trở thành người có ích cho gia đình và xã hội, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian.

[4]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Công an huyện Đ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[5]. Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính là phạt tù thì bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại Khoản 5 Điều 249/BLHS là phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Nhưng xét thấy bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có khả năng thi hành, nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6]. Nguồn gốc số ma túy bị thu giữ có được là do bị cáo mua của người phụ nữ khoảng 30 tuổi, do bị cáo không biết tên và địa chỉ nên CQĐT không có căn cứ để điều tra xác minh làm rõ được.

[7]. Về án phí: Căn cứ Khoản 2 Điều 136/BLTTHS; Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm.

[8]. Vật chứng: 0,18 gam Heroine, gửi giám định toàn bộ (hoàn lại mẫu vật sau khi giám định là 0,11 gam), 0,32 gam Methamphetamine, gửi giám định toàn bộ (hoàn lại mẫu vật sau khi giám định là 0,2 gam) cần tịch thu tiêu hủy theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 47/BLHS, Điểm a Khoản 2 Điều 106/BLTTHS .

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điểm i Khoản 1 Điều 249; Điểm s Khoản 1 Điều 51/BLHS; Điều 38/Bộ luật hình sự 2015.

1.Tuyên bố: Bị cáo Lò Thị K phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Hình phạt: Xử phạt bị cáo Lò Thị K 18 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt ngày 21/7/2022

3. Về án phí: Căn cứ Khoản 2 Điều 136/BLTTHS; Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí HSST.

4. Về vật chứng: Căn cứ Điểm c Khoản 1 Điều 47/BLHS; Điểm a Khoản 2 Điều 106/BLTTHS: Tịch thu, tiêu hủy 0,18 gam Heroine, gửi giám định toàn bộ (hoàn lại mẫu vật sau khi giám định là 0,11 gam), 0,32 gam Methamphetamine, gửi giám định toàn bộ (hoàn lại mẫu vật sau khi giám định là 0,2 gam).

(Vật chứng đã được công an huyện Đ chuyển cho chi cục thi hành án dân sự huyện Đ ngày 10/10/2022).

5. Về quyền kháng cáo: Căn cứ các Điều 331, Điều 333/BLTTHS; Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

42
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 15/2022/HS-ST

Số hiệu:15/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Điện Biên - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:26/10/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về