Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 151/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀM THUẬN BẮC, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 151/2023/HS-ST NGÀY 22/11/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22 tháng 11 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh B xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 136/2023/HSST ngày 10/10/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 141/2023/QĐXXST-HS ngày 06/11/2023 đối với bị cáo:

NGUYỄN VĂN T - Sinh năm 1999; Giới tính: Nam; Sinh năm 1999 tại tỉnh B. Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: khu phố Phú Xuân, thị trấn P, huyện H, tỉnh B. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không. Trình độ học vấn: 7/12. Nghề nghiệp: Làm nông. Cha: không rõ họ tên. Mẹ: Nguyễn Thị L, sinh năm 1972. Hiện ở khu phố Phú Xuân, thị trấn P, huyện N, tỉnh B. Gia đình có 02 anh em, bị can là con thứ hai. Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo hiện đang tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện H từ ngày 03/8/2023. Bị cáo có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Bà Nguyễn Thị L – sinh năm 1972 (vắng mặt) Địa chỉ: khu phố Phú Xuân, thị trấn P, huyện N, tỉnh B.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 12 giờ 00 phút, ngày 30/05/2023, Nguyễn Văn T, sinh năm 1999, trú tại khu phố Phú Xuân, thị trấn P, huyện H đang ở nhà T thì có nhu cầu sử dụng ma túy nên T lấy điện thoại hiệu Nokia của mẹ ruột T là bà Nguyễn Thị L gọi cho người đàn ông tên Bé (không rõ họ tên, địa chỉ) nói “Làm cho em 150.000đ” nghĩa là T nói với người tên Bé bán cho T 01 tép ma túy đá với giá 150.000đ (Một trăm năm mươi nghìn đồng) và Bé đồng ý (theo lời khai của T), bà L không biết T sử dụng điện thoại của mình để hỏi mua ma túy. Sau đó, T đi bộ ra ngoài đường và đi nhờ xe người dân đi đường đến xóm Bánh Tráng thuộc khu phố Phú Thịnh, thị trấn P, T đi bộ vào trong hẻm gặp người đàn ông tên Bé từ trong hẻm Bánh Tráng đi ra đưa cho T 01 tép ma túy. T đưa tiền cho người đàn ông này rồi cầm 01 tép ma túy bên tay trái đi ra lại ngoài đường nhựa, sau đó đi nhờ xe người dân đi đường về lại nhà, khi đến tiệm phân bón Tồn thuộc khu phố Phú Xuân, thị trấn P, huyện H, T xuống đi bộ khoảng 100 mét về hướng khu phố Phú Mỹ, thị trấn P. Lúc này khoảng 12 giờ 10 phút, cùng ngày, T gặp Tổ công tác Công an thị trấn P đang tuần tra tại tuyến đường P – Phú Hài thuộc khu phố Phú Xuân, thị trấn P, T sợ bị phát hiện nên bỏ chạy và ném 01 tép ma túy đang cầm trên tay xuống đường nhựa thì bị Tổ công tác phát hiện lập biên bản thu giữ 01 ống nhựa không màu, hàn kín hai đầu, kích thước khoảng (1,2x02)cm, bên trong có chứa chất tinh thể rắn màu trắng. T khai nhận, ống nhựa có chứa chất tinh thể rắn màu trắng trên là ma túy đá của T mua từ một người đàn ông tên Bé (không rõ họ tên, địa chỉ, khoảng 30 tuổi) ở xóm Bánh Tráng thuộc khu phố Phú Thịnh, thị trấn P, huyện H với giá tiền 150.000đ (Một trăm năm mươi nghìn đồng) về để sử dụng.

Kết luận giám định số 680/KL-KTHS ngày 13/6/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B kết luận:

II. Đối tượng giám định … 1. Mẫu cần giám định Phong bì được niêm phong, còn nguyên vẹn, có các chữ ký ghi tên: Trịnh Quốc Long; Trần Thanh Dân; Nguyễn Quốc Hùng; Nguyễn Văn T, hình dấu tròn màu đỏ của Công an thị trấn P - huyện H. Trong phong bì có:

01(một) đoạn ống nhựa không màu, được hàn kín hai đầu, bên trong có chứa tinh thể màu trắng (ký hiệu M).

… V. Kết luận về đối tượng giám định Mẫu M gửi giám định có khối lượng 0,1184 gam; là Methamphetamine.

Hoàn lại đối tượng giám định: 01 (một) đoạn ống nhựa không màu đã cắt lấy mẫu cùng 0,0936 gam mẫu M còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 680, có chữ ký của Giám định viên Đoàn Thảo Nguyên và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh B.

Vật chứng vụ án thu giữ và xử lý:

01 (một) đoạn ống nhựa không màu đã cắt lấy mẫu cùng 0,0936 gam mẫu M còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 680, có chữ ký của Giám định viên Đoàn Thảo Nguyên và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh B là vật chứng vụ án. Viện kiểm sát nhân dân huyện H đã ra quyết định chuyển vật chứng trên từ Cơ quan CSĐT – Công an huyện H đến Chi cục Thi hành án dân sự huyện H Bảo quản chờ xử lý.

Tại bản cáo trạng số 143/CT-VKSHTB ngày 06/10/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện H truy tố bị cáo Nguyễn Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Bị cáo Nguyễn Văn T đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng: Điểm c Khoản 1 Điều 249; Điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Tuyên bố Nguyễn Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt Nguyễn Văn T từ 01(một) năm đến 01 năm 03 (ba) tháng tù.

Tịch thu tiêu hủy các vật chứng sau: 01 (một) đoạn ống nhựa không màu đã cắt lấy mẫu cùng 0,0936 gam mẫu M còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 680, có chữ ký của Giám định viên Đoàn Thảo Nguyên và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh B.

Bị cáo nói lời nói sau cùng: Bị cáo biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo rất ăn năn hối hận, mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra và Điều tra viên Công an huyện H; Viện Kiểm sát nhân dân huyện H và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn T khai nhận về hành vi phạm tội của bị cáo đúng như Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân huyện H đã truy tố. Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại Tòa phù hợp lời khai tại Cơ quan điều tra Công an huyện H, các tài liệu chứng cứ khác có tại hồ sơ và được thẩm tra tại phiên tòa. Đủ căn cứ pháp luật để khẳng định:

Khoảng 12 giờ 10 phút ngày 30/5/2023, tại tuyến đường P – Phú Hài thuộc khu phố Phú Xuân, thị trấn P, huyện H. Tổ công tác Công an thị trấn P phát hiện Nguyễn Văn T đang ném 01 ống nhựa không màu, hàn kín hai đầu, kích thước khoảng (1,2x02)cm, bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng xuống đường. Tổ công tác lập biên bản thu giữ ống nhựa trên và đưa T về trụ sở làm việc. T khai nhận đó là ma túy đá T mua của một người tên Bé về để sử dụng. Khối lượng ma túy thu giữ của T qua giám định là 0,1184 gam là Methamphetamine. Do đó, Nguyễn Văn T đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát nhân dân huyện H, tỉnh B truy tố bị cáo về tội danh và điều luật như trên là có cơ sở, đúng quy định của pháp luật.

[3] Xét tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Nguyễn Văn T không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4] Xét tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo Nguyễn văn T khai báo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Vì vậy, Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[5] Về hình phạt: Căn cứ tính chất và mức độ phạm tội của bị cáo thấy rằng do có nhu cầu sử dụng ma túy nên ngày 30/5/2023 bị cáo Nguyễn Văn T gọi điện thoại cho một người tên Bé mua 0,1184 gam ma túy mang về sử dụng cất trong người, khoảng 12 giờ 10 phút cùng ngày bị tổ công tác Công an thị trấn P bắt quả tang. Hành vi của bị cáo Nguyễn Văn T đã xâm phạm đến sự độc quyền quản lý Nhà nước về chất ma túy, ma túy là nguồn gốc gây ra tệ nạn xã hội khác làm mất an ninh trật tự địa phương là nguy hiểm cho xã hội. Do đó, cần thiết phải xử phạt bị cáo mức án nghiêm khắc tương xứng với hành vi và hậu quả do bị cáo gây ra, cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[6] Về biện pháp tư pháp: Xét thấy bị cáo có hoàn cảnh khó khăn nên không phạt tiền.

[7] Đối với bà Nguyễn Thị L (Mẹ ruột của T), T đã tự ý lấy điện thoại của bà L gọi cho người tên Bé để mua ma túy. Bà L không biết và cũng không giúp sức gì cho T thực hiện hành vi phạm tội nên không đồng phạm với T về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" quy định tại Điều 249 Bộ luật Hình sự.

[8] Đối với người có tên "Bé" không rõ họ tên, địa chỉ ở xóm Bánh Tráng thuộc khu phố Phú Thịnh, thị trấn P là người đã bán ma túy cho T (theo lời khai của T), đến nay chưa xác định được họ tên, địa chỉ cụ thể của người có tên “Bé” trên nên Cơ quan CSĐT Công an huyện H tiếp tục xác mình làm rõ xử lý sau.

[9] Về xử lý vật chứng: 01 (một) đoạn ống nhựa không màu đã cắt lấy mẫu cùng 0,0936 gam mẫu M còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 680, có chữ ký của Giám định viên Đoàn Thảo Nguyên và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh B là vật chứng của vụ án tịch thu tiêu hủy.

Bị cáo Nguyễn Văn T phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Điểm c Khoản 1 Điều 249; Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Nguyễn Văn T 01 (một) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 03/8/2023.

Về xử lý vật chứng: căn cứ: Điều 46; Điểm c Khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a Khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự.

Tịch thu tiêu hủy các vật chứng sau: 01 (một) đoạn ống nhựa không màu đã cắt lấy mẫu cùng 0,0936 gam mẫu M còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 680, có chữ ký của Giám định viên Đoàn Thảo Nguyên và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh B . Tất cả các vật chứng trên hiện đang tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện H theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 13/10/2023.

3. Về án phí: Áp dụng Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sựNghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Nguyễn Văn T phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo đối với bản án:

Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Riêng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết tại địa phương.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

20
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 151/2023/HS-ST

Số hiệu:151/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hàm Thuận Bắc - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/11/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về