Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 150/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀM THUẬN BẮC, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 150/2023/HS-ST NGÀY 22/11/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22 tháng 11 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh T xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 134/2023/HSST ngày 06/10/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 140/2023/QĐXXST-HS ngày 06/11/2023 đối với bị cáo:

NGUYỄN VĂN N - Sinh năm 1992; Giới tính: Nm; Nơi sinh: tỉnh T; Nơi ĐKHKTT và nơi ở: khu phố Phú Trường, thị trấn Phú Long, huyện B, tỉnh T. Quốc tịch: Việt Nm; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không. Trình độ học vấn: 6/12. Nghề nghiệp: Làm nông. Cha: Nguyễn Văn C, Sinh năm 1969. Mẹ: Lê Thị L, Sinh năm 1971. Cả hai hiện làm nông và cùng ở tại khu phố Phú Trường, thị trấn Phú Long, huyện B, tỉnh T. Gia đình có hai anh em, bị cáo là con thứ nhất. Vợ: Nguyễn Thị Thanh H, Sinh năm 1992, Nghề nghiệp: Công nhân, trú tại: khu phố Phú Trường, thị trấn Phú Long, huyện B, tỉnh T.Tiền án: Không.

Tiền sự:

- Ngày 25/7/2022, bị Công an thị trấn Phú Long ra Quyết định xử phạt hành chính số 2151/QĐ-XPVPHC về hành vi sử dụng trái phép chất ma tuý với mức phạt 1.500.000 đồng.

- Ngày 10/4/2023, bị Công an huyện B ra Quyết định xử phạt hành chính với số tiền 5.000.000 đồng về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và “Sử dụng trái phép chất ma túy” xảy ra vào ngày 01/9/2022 tại khu phố Phú Hòa, thị trấn Phú Long, huyện B.

- Ngày 22/5/2023, bị Toà án nhân dân huyện B ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc số 26/QĐ - TA, thời hạn 15 tháng, kể từ ngày bị tạm giữ để đưa đi cơ sở cai nghiện bắt buộc.

- Ngày 24/5/2023, bị Chủ tịch UBND thị trấn Phú Long ra Quyết định xử phạt hành chính số tiền 2.500.000 đồng về hành vi “Lạm dụng tín nhiếm chiếm đoạt tài sản” xảy ra vào ngày 27/4/2023.

Nhân thân:

- Ngày 16/9/2019, bị Chủ tịch UBND thị trấn Phú Long ra Quyết định số 158/QĐ-UBND về việc áp dụng biện pháp giáo dục tại cấp phường xã, thị trấn về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”, đến ngày 13/12/2019 Chủ tịch UBND thị trấn Phú Long ra Quyết định chấm dứt áp dụng biện pháp giáo dục tại cấp phường xã, thị trấn.

- Ngày 05/3/2020, bị Tòa án nhân dân huyện B ra Quyết định số 06/QĐ-TA về việc đưa đối tượng Nguyễn Văn N vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời gian 12 tháng. Chấp hành xong ngày 19/3/2021.

- Ngày 27/7/2022, bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị trấn Phú Long ra Quyết định áp dụng biện pháp quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy số 209/QĐ- UBND, thời hạn 01 năm kể từ ngày 27/7/2022.

Bị cáo hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện B từ ngày 19/7/2023 cho đến Ny. Bị cáo có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Do có nhu cầu sử dụng ma túy nên vào khoảng 09 giờ 30 phút, ngày 29/05/2023, Nguyễn Văn N, sinh năm 1992, ở khu phố Phú Trường, thị trấn Phú Long, huyện B bắt xe ôm đến khu vực gần chợ Phú Thủy thuộc phường Phú Thủy, thành phố Phan Thiết để tìm mua ma túy về sử dụng. Khi đến khu vực trên N gặp một người đàn ông chạy xe ôm khác (không rõ nhân thân), N đi lại nhờ người này mua 200.000 ma túy Heroine thì người này đồng ý. Người đàn ông nhận tiền từ N đưa sau đó đi lấy ma túy. Khoảng 05 phút sau người này quay lại đưa cho N 01 gói thuốc Cotab, N nhận gói thuốc từ người đàn ông rồi kiểm tra thấy bên trong có 03 tép ma túy thì bỏ vào túi quần bên trái rồi đi bộ ra bắt xe ôm về lại thị trấn Phú Long. Đến khoảng 10 giờ cùng ngày, khi đi đến ngã 4 đèn xanh đèn đỏ thuộc khu phố Phú Trường, thị trấn Phú Long thì N xuống xe rồi đi bộ để về nhà. Khi N đang đi bộ đến khu vực gần nhà của mình ở khu phố Phú Trường thì Tổ công tác của Công an thị trấn Phú Long phát hiện N có biển hiện nghi vấn nên đã yêu cầu kiểm tra hành chính. Qua kiểm tra Tổ công tác phát hiện thu giữ trong túi quần bên trái của N đang mặc 01 gói thuốc Cotab, bên trong có chứa 03 ống nhựa gồm: 01 ống nhựa màu xanh, hàn kín 02 đầu, kích thước (01x1,8) cm; 01 ống nhựa, màu cam, hàn kín 02 đầu, kích thước (01x02) cm và 01 ống nhựa, màu tím, hàn kín 02 đầu, kích thước (0,5x02) cm, bên trong tất cả các ống nhựa đều có chứa chất rắn dạng nén nghi là ma túy. Tổ công tác lập biên bản sự việc, thu giữ các vật chứng đồng thời đưa N về trụ sở Công an thị trấn để làm việc. Tại đây, N đã thừa nhận 03 ống nhựa bên trong mỗi ống đều có chứa chất rắn dạng nén mà Tổ công tác vừa thu giữ của N là ma túy Heroine, N mua về tàng trữ nhằm mục đích sử dụng.

Kết luận giám định số 692/KL - KTHS ngày 15/6/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T kết luận:

…..

II. Đối tượng giám định 1. Mẫu cần giám định.

Phong bì màu trắng, được niêm phong còn nguyên vẹn, có các chữ ký ghi tên: Đào Xuân Tân, Trần Thanh Dân, Nguyễn Quốc Hùng, Nguyễn Văn N, hình dấu tròn màu đỏ của Công an thị trấn Phú Long – huyện B. Trong phong bì có 03 đoạn ống nhựa (gồm 01 đoạn màu xanh, 01 đoạn màu cam, 01 đoạn màu tím) đều được hàn kín hai đầu, bên trong có chứa chất màu trắng (ký hiệu M).

… V. Kết luận về đối tượng giám định Mẫu M gửi giám định có khối lượng 0,0755 gam; là Heroine;

Hoàn lại đối tượng giám định: 03 đoạn ống nhựa (gồm 01 đoạn màu xanh, 01 đoạn màu cam, 01 đoạn màu tím), đã cắt lấy mẫu cùng 0,0530 gam mẫu M còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 692, có chữ ký của giám định viên Đoàn Thảo Nguyên và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh T.

Vật chứng thu giữ và xử lý:

- 03 đoạn ống nhựa (gồm 01 đoạn màu xanh, 01 đoạn màu cam, 01 đoạn màu tím), đã cắt lấy mẫu cùng 0,0530 gam mẫu M còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 692, có chữ ký của giám định viên Đoàn Thảo Nguyên và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh T là vật chứng của vụ án, Viện kiểm sát nhân dân huyện B đã ra Quyết định chuyển vật chứng từ Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B đến Chi cục Thi hành án dân sự huyện B để bảo quản chờ xử lý.

Tại bản cáo trạng số 142/CT-VKSHTB ngày 05/10/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện B truy tố bị cáo Nguyễn Văn N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Bị cáo Nguyễn Văn N đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng: Điểm c Khoản 1 Điều 249; Điểm s Khoản 1 và Khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Nguyễn Văn N từ 01 (một) năm đến 01 năm 03 (ba) tháng tù.

Tịch thu tiêu hủy các vật chứng sau: 03 đoạn ống nhựa (gồm 01 đoạn màu xanh, 01 đoạn màu cam, 01 đoạn màu tím), đã cắt lấy mẫu cùng 0,0530 gam mẫu M còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 692, có chữ ký của giám định viên Đoàn Thảo Nguyên và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh T.

Bị cáo nói lời nói sau cùng: Bị cáo biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo rất ăn năn hối hận, mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra và Điều tra viên Công an huyện B; Viện Kiểm sát nhân dân huyện B và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn N khai nhận về hành vi phạm tội của bị cáo đúng như Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân huyện B đã truy tố. Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại Tòa phù hợp lời khai tại Cơ quan điều tra Công an huyện B, các tài liệu chứng cứ khác có tại hồ sơ và được thẩm tra tại phiên tòa. Đủ căn cứ pháp luật để khẳng định:

Khoảng 10 giờ 00 phút ngày 29/05/2023, tại tại khu vực gần nhà của Nguyễn Văn N ở khu phố Phú Trường, thị trấn Phú Long, Tổ công tác Công an thị trấn Phú Long, huyện B tuần tra phát hiện N đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, thu giữ của N 03 đoạn ống nhựa (gồm: 01 đoạn màu xanh, 01 đoạn màu cam, 01 đoạn màu tím) đều được hàn kín hai đầu, bên trong có chứa chất màu trắng là ma túy Heroine N mới mua về nhằm mục đích để sử dụng. Khối lượng ma túy Heroine của N bị thu giữ qua giám định là 0,0755 gam Heroine. Nguyễn Văn N đã bị xử phạt hành chính về hành vi hành vi sử dụng trái phép chất ma túy và hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, trong thời gian chưa được coi là chưa bị xử phạt hành chính mà tiếp tục vi phạm là tình tiết định khung hình phạt quy định tại điểm a khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Do đó, Nguyễn Văn N đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát nhân dân huyện B, tỉnh T truy tố bị cáo về tội danh và điều luật như trên là có cơ sở, đúng quy định của pháp luật.

[3] Xét tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Nguyễn Văn N không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4] Xét tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Văn N khai báo thành khẩn ăn năn hối cải và là con em gia đình liệt sĩ nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Điểm s Khoản 1 và Khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Vì vậy, Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[5] Về hình phạt: Căn cứ tính chất và mức độ phạm tội của bị cáo thấy rằng do có nhu cầu sử dụng ma túy nên ngày 29/5/2023 bị cáo Nguyễn Văn N đến thành phố Phan Thiết mua 0,0755 gam ma túy mang về đến gần nhà bị cáo thì tổ công tác Công an thị trấn Phú Long, huyện B phát hiện bắt quả tang. Hành vi của bị cáo Nguyễn Văn N đã xâm phạm đến sự độc quyền quản lý Nhà nước về chất ma túy, ma túy là nguồn gốc gây ra tệ nạn xã hội khác làm mất an ninh trật tự địa phương là nguy hiểm cho xã hội. Do đó, cần thiết phải xử phạt bị cáo mức án nghiêm khắc tương xứng với hành vi và hậu quả do bị cáo gây ra, cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[6] Về biện pháp tư pháp: Xét thấy bị cáo có hoàn cảnh khó khăn nên không phạt tiền.

[7] Đối với đối tượng mua giùm ma túy cho N vào ngày 29/5/2023 do không xác minh được nhân thân nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B tiếp tục xác minh làm rõ, xử lý sau nếu có căn cứ nên Tòa không xem xét.

[8] Về xử lý vật chứng: 03 đoạn ống nhựa (gồm 01 đoạn màu xanh, 01 đoạn màu cam, 01 đoạn màu tím), đã cắt lấy mẫu cùng 0,0530 gam mẫu M còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 692, có chữ ký của giám định viên Đoàn Thảo Nguyên và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh T là vật chứng của vụ án tịch thu tiêu hủy.

Bị cáo Nguyễn Văn N phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Điểm c Khoản 1 Điều 249; Điểm s Khoản 1 và Khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Nguyễn Văn N 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 19/7/2023.

Về xử lý vật chứng: căn cứ: Điều 46; Điểm c Khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a Khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự.

Tịch thu tiêu hủy các vật chứng sau: 03 đoạn ống nhựa (gồm 01 đoạn màu xanh, 01 đoạn màu cam, 01 đoạn màu tím), đã cắt lấy mẫu cùng 0,0530 gam mẫu M còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 692, có chữ ký của giám định viên Đoàn Thảo Nguyên và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh T. Tất cả các vật chứng trên hiện đang tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện B theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 13/10/2023.

3. Về án phí: Áp dụng Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sựNghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Nguyễn Văn N phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

35
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 150/2023/HS-ST

Số hiệu:150/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hàm Thuận Bắc - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:22/11/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về