Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 149/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀM THUẬN BẮC, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 149/2023/HS-ST NGÀY 22/11/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22 tháng 11 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh B xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 137/2023/HSST ngày 11/10/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 139/2023/QĐXXST-HS ngày 16/11/2023 đối với bị cáo:

TRƯƠNG NGỌC S - Sinh năm 1995; Giới tính: Nam; Sinh năm: 1995 tại B. Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: thôn 4, xã Hồng S, huyện H, tỉnh B. Quốc tịch: V Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không. Trình độ học vấn: 6/12. Nghề nghiệp: Không. Cha: Trương Minh H, sinh năm 1967 (chết). Mẹ: Nguyễn Thị P, sinh năm 1972. Hiện ở: Thôn 4, xã Hồng S, huyện H, tỉnh B. Gia đình có hai anh em, bị cáo là người con lớn nhất. Vợ: Trần Thị Hồng N, sinh năm 1999 (không đăng ký kết hôn); Con: có 01 người con, sinh năm 2018. Hiện ở thôn 4, xã Hồng S, huyện H, tỉnh B. Tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân: Ngày 11/4/2017, bị Tòa án nhân dân huyện H xử phạt 06 tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” tại bản án số 18/2017/HSST, chấp hành xong hình phạt tù ngày 03/8/2017. Đã xóa án tích. Bị cáo hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ - Công an huyện H từ ngày 23/5/2023. Bị cáo có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1/Nguyễn H T – sinh năm 1984 (vắng mặt) Địa chỉ: Khu phố 1, thị trấn Ma Lâm, huyện H, tỉnh B

2/Trương Ngọc T – sinh năm 2001 (vắng mặt) Địa chỉ: thôn 4, xã Hồng S, huyện H, tỉnh B

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 15 giờ 30 phút, ngày 04/01/2023, tổ công tác Công an xã Hồng S mặc thường phục, điều khiển 01 xe mô tô cá nhân và 01 xe mô tô cơ quan đến nhà bà Nguyễn Thị P , sinh năm 1972, ở thôn 4, xã Hồng S để gặp Trương Ngọc S, sinh năm 1995 là con trai của bà P để cho S ký cam kết không sử dụng, tàng trữ, mua bán trái phép chất ma túy. Khi tổ công tác vào trước sân nhà bà P thì nhìn thấy ông Đinh Văn V, sinh năm 1982, ở thôn Dân Hiệp, xã Thuận Hòa đang đứng ở hành lang nhà S đợi lấy tiền chở thuê cùng Trương Ngọc Tr (em trai của S), sinh năm 2001, ở cùng nhà với S, còn S đang nằm trên võng xem ti vi. Nhìn thấy có người vào nhà thì Tr chạy từ nhà sau lên nhà trước, S thì chạy đến bể thủy tinh nuôi cá ở gian nhà giữ. Thấy nghi vấn nên các đồng chí trong Tổ công tác chạy đến cửa bên hông gian nhà giữa, đồng chí Nguyễn T – Trưởng Công an xã Hồng S đi đến gần cửa bên hông gian nhà trước. Lúc này khoảng 16 giờ 00 phút cùng ngày, Trương Ngọc S lấy 01 gói nylon không màu có chứa tinh thể màu trắng đang cất giấu bên hông bể thủy tinh nuôi cá cầm trên tay từ trong nhà chạy ra hướng cửa gian nhà giữa thì gặp đồng chí Bùi Minh G (Công an viên). S ném gói nylon đang cầm trên tay qua cửa sổ ra hồ nuôi cá. Tr nhìn thấy thì chạy ra hướng cửa nhà trước thì bị đồng chí Lê Ngọc V (Công an viên) và đồng chí Phạm Đăng Q (công an viên) khống chế, trên tay phải của Tr cầm cái bật lửa, thấy không có gì nên tổ công tác thả Tr ra. Sau đó đồng chí T đi đến chỗ hồ nuôi cá thì thấy một gói nylon không màu và những tinh thể màu trắng nằm rơi vãi trên nền bê tông, gần trụ sắt của mái che. Đồng chí T sử dụng điện thoại di động ghi lại hình ảnh các hạt tinh thể rơi vãi trên nền bê tông. Trong lúc tổ công tác ghi hình thì S từ phía sau nhà cầm cây xẻng cán bằng gỗ, lưỡi bằng kim loại đi đến xông vào nơi tổ công tác đứng (S không biết những người này là Công an xã do các đồng chí mặc thường phục). Thấy vậy đồng chí V dùng tay ôm S, S dùng chân đá gói nylon có chứa tinh thể màu trắng thì bị đồng chí T ngăn cản, lúc này trên tay S đang cầm cây xẻng, đồng chí T nhào vào giật cây xẻng thì bị thương ở tay, qua giám định có tỉ lệ tổn cơ thể là 1%. Cùng lúc này, Tr nhào đến tổ công tác để lấy gói ny lon trên, các đồng chí trong tổ công tác ngăn cản nhưng Tr nhặt lấy gói nylon lao đến hồ cá quơ qua quơ lại dưới nước để phi tang các hạt tinh thể màu trắng. Tổ công tác nhặt những tinh thể màu trắng, màu nâu rơi vãi trên nền bê tông bỏ vào gói nylon màu trắng và mời S, Tr về trụ sở làm việc thì S và Tr bỏ đi. Tổ công tác Công an xã tiến hành lập biên bản ghi nhận sự việc và thu giữ những hạt tinh thể màu trắng, màu nâu và chuyển nguồn tin cho Công an huyện H. Tổ công tác Công an huyện H mời Trương Ngọc S về trụ sợ làm việc, tại đây S đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. S thừa nhận gói nylon có chứa tinh thể màu trắng S ném ra hồ nuôi cá là của S. Thời gian cách ngày 04/01/2023, khoảng 02 tháng, S đến thành phố Phan Thiết gặp một người đàn ông chạy xe ôm (không rõ họ tên, địa chỉ) ở khu vực bến xe Bắc Phan Thiết hỏi mua 2.000.000 đồng tiền ma túy đá để đem về sử dụng. S đã sử dụng được một ít, số còn lại bỏ trong gói nylon cất giấu gần bể thủy tinh nuôi cá cảnh trong nhà. Khi thấy tổ công tác vào nhà kiểm tra, S sợ bị phát hiện nên đã đem ném gói nylon có chứa ma túy đá ra hồ nuôi cá để phi tang vật chứng nhưng đã bị tổ công tác phát hiện và thu giữ.

Kết luận giám định số: 151/KL-KTHS ngày 13/02/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B:

II. Đối tượng giám định:

Phong bì được niêm phong còn nguyên vẹn, có các chữ ký ghi tên: Huỳnh Ngọc N, Phạm Hùng V, Phạm Đăng Q, Lê Ngọc V, Bùi Minh G, Đinh Văn V, Huỳnh Trần N. Trong phong bì có 01 (một) gói nylon không màu, được hàn kín, bên trong có chứa tinh thể màu trắng (ký hiệu M1) và chất màu nâu (ký hiệu M2).

V. Kết luận giám định:

- Mẫu M1 gửi giám định có khối lượng 6,1517 gam; là Methamphetamine.

- Mẫu M2 gửi giám định có khối lượng 3,0752 gam; không tìm thấy thành phần chất ma túy và tiền chất quy định trong các danh mục thuộc Nghị định số 57/2022/NĐ-CP ngày 25/8/2022 của Chính phủ quy định các danh mục chất ma túy và tiền chất.

Hoàn lại đối tượng giám định: 01 (một) gói nylon đã cắt lấy mẫu cùng 4,7337 gam mẫu M1 và 3,0552 gam mẫu M2 còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 151, có chữ ký của giám định viên Đoàn Thảo Nguyên và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh B.

Kết luận giám định pháp y về thương tích số 189/KLTTCT-TTPYBT ngày 13/3/2023 của T tâm pháp y Sở y tế tỉnh B kết luận thương tích của Nguyễn T:

- Căn cứ thông tư số 22/2019/TT-BYT ngày 28 tháng 8 năm 2019 của Bộ Y tế quy định tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể sử dụng trong giám định pháp y, giám định pháp y tâm thần, xác định tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của ông Nguyễn T tại thời điểm giám định là: 1% (một phần trăm), áp dụng phương pháp cộng tại Thông tư.

- Kết luận khác:

+ Vết thương do vật sắt gây ra + Vết thương có chiều hướng lực tác động theo tư thế cơ năng của cơ thể với vật gây thương.

Vật chứng vụ án thu giữ và xử lý:

01 (một) gói nylon đã cắt lấy mẫu cùng 4,7337 gam mẫu M1 và 3,0552 gam mẫu M2 còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 151, có chữ ký của giám định viên Đoàn Thảo Nguyên và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh B là vật chứng vụ án. Viện kiểm sát nhân dân huyện H đã ra quyết định chuyển vật chứng trên từ Cơ quan CSĐT – Công an huyện H đến Chi cục Thi hành án dân sự huyện H bảo quản chờ xử lý.

Đối với 01 cây xẻng dài 1.05m, lưỡi bằng sắt dài 27cm, cán bằng gỗ dài 78cm. Trương Ngọc S sử dụng gây thương tích cho Nguyễn T. Sau khi tạm giữ và làm rõ có liên quan đến hành vi bị xử phạt vi phạm hành chính. Do đó, Cơ quan CSĐT Công an huyện H tiếp tục tạm giữ để xử lý theo quy định.

01 đĩa DVD lưu giữ hình ảnh ghi lại nội dung sự việc xảy ra vào ngày 04/01/2023 tại nhà bà Nguyễn Thị P. Chuyển cùng hồ sơ vụ án.

Tại bản cáo trạng số 146/CT-VKSHTB ngày 10/10/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện H truy tố bị cáo Trương Ngọc S về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điểm g Khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Bị cáo Trương Ngọc S đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng: Điểm g Khoản 2 Điều 249; Điểm s Khoản 1 và Khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Tuyên bố Trương Ngọc S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt Trương Ngọc S từ 06 (năm) 06 (sáu) tháng đến 07 (bảy) năm tù.

Tịch thu tiêu hủy các vật chứng sau: 01 (một) gói nylon đã cắt lấy mẫu cùng 4,7337 gam mẫu M1 và 3,0552 gam mẫu M2 còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 151, có chữ ký của giám định viên Đoàn Thảo Nguyên và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh B.

Bị cáo nói lời nói sau cùng: Bị cáo biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo rất ăn năn hối hận, mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra và Điều tra viên Công an huyện H; Viện Kiểm sát nhân dân huyện H và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Trương Ngọc S khai nhận về hành vi phạm tội của bị cáo đúng như Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân huyện H đã truy tố. Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại Tòa phù hợp lời khai tại Cơ quan điều tra Công an huyện H, các tài liệu chứng cứ khác có tại hồ sơ và được thẩm tra tại phiên tòa. Đủ căn cứ pháp luật để khẳng định:

Khoảng 16 giờ 00 phút ngày 04/01/2023, Tổ công tác Công an xã Hồng S đến tại nhà bà Nguyễn Thị P – mẹ ruột Trương Ngọc S để kiểm tra hành chính. Lúc này, S có hành vi ném 01 gói nylon, bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng ra nền xi măng cạnh hồ cá nhà S làm rơi những cục chất tinh thể màu trắng ra ngoài. Tổ công tác đã tiến hành thu giữ và lập biên bản ghi nhận sự việc. Qua làm việc, S khai nhận đó là ma túy đá, S mua về để dành sử dụng. Khối lượng ma túy thu giữ của S qua giám định là 6,1517 gam là Methamphetamine. Hành vi của Trương Ngọc S đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát nhân dân huyện H, tỉnh B truy tố bị cáo về tội danh và điều luật như trên là có cơ sở, đúng quy định của pháp luật.

[3] Xét tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Trương Ngọc S không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4] Xét tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo Trương Ngọc S khai báo thành khẩn ăn năn hối cải, có Bác ruột tham gia cách mạng là bộ đội tham gia chiến trường Campuchia nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Điểm s Khoản 1 và Khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Vì vậy, Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[5] Về hình phạt: Căn cứ tính chất và mức độ phạm tội của bị cáo thấy rằng do có nhu cầu sử dụng ma túy nên Trương Ngọc S đi đến Bến xe Bắc thành phố Phan Thiết để mua 6,1517 gam là Methamphetamine về sử dụng. Ngày 04/01/2023, Tổ công tác Công an xã Hồng S, huyện H bắt quả tang tại nhà ở của Trương Ngọc S tàng trữ trái phép chất ma túy. Hành vi của bị cáo Trương Ngọc S đã xâm phạm đến sự độc quyền quản lý Nhà nước về chất ma túy, ma túy là nguồn gốc gây ra tệ nạn xã hội khác làm mất an ninh trật tự địa phương là nguy hiểm cho xã hội. Do đó, cần thiết phải xử phạt bị cáo mức án nghiêm khắc tương xứng với hành vi và hậu quả do bị cáo gây ra, cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[6] Về biện pháp tư pháp: Xét thấy bị cáo có hoàn cảnh khó khăn nên không phạt tiền.

[7] Đối với hành vi của S dùng cây xẻng quơ trúng tay ông Nguyễn T gây thương tích 1% qua giám định, ông T không yêu cầu xử lý S về hành vi trên và cũng không yêu cầu bồi thường dân sự. Do đó, Cơ quan CSĐT không xem xét xử lý. Tuy nhiên hành vi trên của S Cơ quan CSĐT đã chuyển Công an huyện H xử phạt vi phạm hành chính là đúng pháp luật.

[8]Đối với Trương Ngọc Tr là em trai của S, ở cùng nhà với S, Tr đã lấy gói nylon (đã rơi các hạt chất tinh thể ra ngoài) mà S đã ném ra nền xi măng gần hồ nuôi cá, bỏ xuống hồ cá. Nhưng Tr không biết S mua ma túy của ai, mua lúc nào, việc Tr ném gói nylon có ma túy trên nhằm mục đích phi tang vì nghĩ rằng đó là ma túy. Mặc khác, Tr không góp tiền, giúp sức hay tạo điều kiện gì cho S tàng trữ trái phép số ma túy trên để sử dụng. Do đó, không đủ căn cứ để xử lý Trương Ngọc Tr là đồng phạm với S về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại Điều 249 Bộ luật Hình sự.

[9]Đối với người đàn ông chạy xe ôm tại khu vực bến xe Bắc Phan Thiết đã bán ma túy cho S (theo lời khai của S). Cơ quan CSĐT đã tiến hành xác minh nhưng chưa xác định được họ tên, địa chỉ cụ thể của người này nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện H tiếp tục xác minh, làm rõ và xử lý sau nếu có căn cứ.

[10] Về xử lý vật chứng: 01 (một) gói nylon đã cắt lấy mẫu cùng 4,7337 gam mẫu M1 và 3,0552 gam mẫu M2 còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 151, có chữ ký của giám định viên Đoàn Thảo Nguyên và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh B tịch thu tiêu hủy.

Bị cáo Trương Ngọc S phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điểm g Khoản 2 Điều 249; Điểm s Khoản 1 và Khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Tuyên bố bị cáo Trương Ngọc S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Trương Ngọc S 06 (sáu) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 23/5/2023.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng: Điều 46; Điểm a Khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a Khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự.

Tịch thu tiêu hủy các vật chứng sau: 01 (một) gói nylon đã cắt lấy mẫu cùng 4,7337 gam mẫu M1 và 3,0552 gam mẫu M2 còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 151, có chữ ký của giám định viên Đoàn Thảo Nguyên và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh B. Tất cả các vật chứng trên hiện đang tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện H theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 13/10/2023.

3. Về án phí: Áp dụng Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sựNghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Trương Ngọc S phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Riêng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết tại địa phương.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

2
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 149/2023/HS-ST

Số hiệu:149/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hàm Thuận Bắc - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/11/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về