Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 146/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SƠN LA, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 146/2022/HS-ST NGÀY 31/08/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 31 tháng 8 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai theo hình thức trực tuyến tại 02 điểm cầu, điểm cầu trung tâm đặt tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố Sơn La với điểm cầu thành phần đặt tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Sơn La vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 142/2022/TLST-HS ngày 27 tháng 7 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 142/2022/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 8 năm 2022 và Thông báo thay đổi ngày xét xử vụ án hình sự ngày 22/8/2022 đối với bị cáo:

Cầm Văn T (tên gọi khác: Không), sinh ngày 11 tháng 4 năm 1961; tại: huyện S, tỉnh Sơn La; nơi ĐKHKTT và cư trú: Bản T, xã Chiềng Khương, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La; Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 01/10; Dân tộc: Thái; giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: V Nam; Đảng phái, đoàn thể: Không; con ông Cầm Văn O (đã chết) và con bà Lường Thị L (đã chết); Bị cáo có vợ là Lường Thị S và có 5 con, con lớn sinh năm 1981, con nhỏ sinh năm 1995; Tiền sự: Không; Tiền án: Không; Bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 16 tháng 4 năm 2022 đến nay, có mặt tại phiên tòa.

Tham gia tại điểm cầu thành phần gồm có: Ông Đỗ Anh Tú - Thư ký Tòa án nhân dân thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La; Bị cáo Cầm Văn T.

Những người tham gia tố tụng khác hỗ trợ tổ chức phiên tòa tại điểm cầu thành phần: Ông Trần H V và ông Đinh Mạnh H - Cán bộ đội Thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp Công an thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 16 giờ 50 phút ngày 16/4/2022, Tổ công tác đội CSĐTTP về kinh tế - ma túy Công an thành phố Sơn La phối hợp với Công an phường Chiềng Sinh, thành phố Sơn La làm nhiệm vụ tại khu vực bản Cang, phường Chiềng Sinh, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La đã phát hiện, bắt quả tang Cầm Văn T đang có hành vi cất giữ trái phép chất ma tuý.

Vật chứng thu giữ: 01 gói giấy bạc màu vàng, mở ra bên trong gói giấy có chứa 30 viên nén đồng dạng màu hồng (Cầm Văn T tự giác lấy trong túi quần phía trước bên phải đang mặc ở người ra giao nộp, khai nhận là ma túy Hồng phiến bị cáo vừa mua được của một người đàn ông không rõ lai lịch, danh tính và cất giữ để sử dụng cho bản thân).

Ngày 16/4/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Sơn La đã thành lập Hội đồng bóc mở niêm phong, cân tịnh vật chứng, lấy mẫu gửi giám định và niêm phong lại, kết quả: 30 viên nén màu hồng trong gói giấy bạc màu vàng thu giữ khi bắt quả tang Cầm Văn T có khối lượng là 3,11 gam, lấy ra 05 viên có khối lượng 0,48 gam làm mẫu giám định cho vào túi nilon màu trắng dán kín lại ký hiệu là T1, số còn lại 25 viên có khối lượng 2,63 gam làm mẫu lưu kho cho vào túi nilon màu trắng dán kín lại ký hiệu T2. Cùng ngày cơ quan điều tra Công an thành phố Sơn La ra quyết định trưng cầu giám định số 76/ QĐ-ĐCSKT,MT đối với mẫu có ký hiệu T1 thu giữ của Cầm Văn T.

Ngày 18/4/2022, Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La có Kết luận giám định số 678/KL-KTHS kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu T1 là ma túy; loại Methamphetamine. Khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,48gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 3,11 gam; loại Methamphetamine”. Mẫu gửi giám định đã sử dụng hết trong quá trình giám định.

Quá trình điều tra bị cáo Cầm Văn T khai nhận: Khoảng 08 giờ, ngày 16/4/2022 Cầm Văn T bắt xe Buýt từ xã Chiềng Khương, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La ra khu vực bản Mạt, xã Chiềng Mung, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La để thăm người thân. Đến khoảng 15 giờ cùng ngày, Cầm Văn T đi bộ từ bản Mạt, xã Chiềng Mung, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La đến khu vực phường Chiềng Sinh, thành phố Sơn La để tìm mua ma túy, khi bị cáo đi bộ đến đoạn đường 4G thuộc bản Cang, phường Chiềng Sinh, thành phố Sơn La T gặp một người nam giới đang đỗ xe ven đường, nhìn thấy giống người nghiện T đến gần bắt quen và hỏi mua ma túy, qua trao đổi người đàn ông đã bán cho T một gói giấy bạc màu vàng bên trong có chứa 30 viên nén màu hồng với giá 1.000.000đ. Sau đó T cất gói ma túy vào túi quần phía trước bên trái đang mặc rồi đi bộ theo hướng về bản Mạt, xã Chiềng Mung, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La để tìm nơi sử dụng ma túy, nhưng vừa đi được một đoạn thì bị cơ quan Công an phát hiện bắt quả tang và thu giữ vật chứng.

Về nguồn gốc số ma túy thu giữ trong vụ án, bị cáo khai nhận là của bị cáo mua của người đàn ông (không biết tên, tuổi, địa chỉ) vào ngày 16/4/2022 tại khu vực bản Cang, phường Chiềng Sinh, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La, ngoài lời khai của bị cáo không có nguồn tài liệu chứng cứ nào khác chứng minh. Do vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra không có cơ sở mở rộng vụ án.

Tại bản cáo trạng số: 263/CT-VKSTP ngày 26/7/2022, của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La đã truy tố bị cáo Cầm Văn T về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà hôm nay, bị cáo Cầm Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, thừa nhận bản cáo trạng truy tố bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy là đúng người, đúng tội.

Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La giữ quyền công tố tại phiên toà trình bày lời luận tội, sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, cũng như qua xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Cầm Văn T phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xử phạt bi cao Cầm Văn T từ 03 năm 06 tháng đến 04 năm tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) chiếc phong bì công văn do Công an thành phố Sơn La phát hành, còn nguyên niêm phong, mặt trước phong bì ghi: “Vật chứng lưu kho vụ Cầm Văn T - SN 1961 - Tàng trữ trái phép chất ma túy. Bắt ngày 16/4/2022. Gồm: 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở; 1 mảnh giấy bạc màu vàng; Mẫu lưu T2= 2,63 gam”, mặt sau phong bì tại mép giáp lai được dán giấy niêm phong, trên giấy dán niêm phong có dòng chữ “ GIẤY NIÊM PHONG – CÔNG AN TỈNH SƠN LA”, số 083137 và 01 dấu tròn đỏ của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Sơn La cùng chữ ký và dòng ghi họ tên của thành phần tham gia niêm phong của Vì Hoàng Nam, Trần Huy Ngọc Anh, Nguyễn Thị Chung, Phạm Kiên Trung, Đồng Trọng Sổ, đối tượng Cầm Văn T và ghi dòng chữ “ Cơ quan CSĐT – CATP Sơn La hồi 21 giờ 45 phút ngày 16/4/2022 tại CATP Sơn La”.

Buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa , bị cáo Cầm Văn T nhận tội và không có ý kiến tranh luận gì với vị đại diện Viện kiểm sát , đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho b ị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Sơn la, tỉnh Sơn La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, thực hiện đúng thủ tục tố tụng. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Về hành vi phạm tội: Lời khai nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa đã thể hiện:

Ngày 16/4/2022, Cầm Văn T đã có hành vi cất giữ trái phép 3,11 gam chất ma túy là Methamphetamine với mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị phát hiện, bắt quả tang tại bản Cang, phường Chiềng Sinh, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La.

Tại phiên tòa bị cáo Cầm Văn T giữ nguyên lời khai tại cơ quan điều tra, không bổ sung thêm nội dung gì làm thay đổi nội dung của vụ án, bị cáo hoàn toàn nhất trí với hành vi phạm tội như quyết định truy tố của Viện kiểm sát.

Hành vi phạm tội của bị cáo được chứng minh bằng các căn cứ:

- Lời khai nhận tội của bị cáo;

- Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 17 giờ 00 phút ngày 16/4/2022 tại bản Cang, phường Chiềng Sinh, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La đối với Cầm Văn T cùng vật chứng thu giữ là 01 gói giấy bạc màu vàng, bên trong gói giấy có 30 viên nén màu hồng có tổng khối lượng 3,11 gam.

- Biên bản niêm phong vật chứng; Biên bản mở niêm phong kiểm tra vật chứng và niêm phong lại; Biên bản bóc mở niêm phong, cân tịnh vật chứng lấy mẫu gửi giám định và niêm phong lại; Kết luận giám định số 678 ngày 18/4/2022 của phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La.

Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của ông Đồng Trọng S, sinh năm 1958, HKTT: tổ 3, phường C, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La là người chứng kiến việc bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với kết quả điều tra.

Từ các căn cứ nêu trên, đã có đủ cơ sở kết luận hành vi tàng trữ trái phép 3,11 gam Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng của bị cáo Cầm Văn T đã phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[3] Về tình tiết định khung hình phạt: Bị cáo Cầm Văn T có hành vi tàng trữ 3,11 gam Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng, khối lượng ma túy bị thu giữ trong vụ án là 3,11 gam thuộc trường hợp quy định tại điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, có khung hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm và thuộc trường hợp nghiêm trọng.

[4] Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, thấy rằng: Hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội ở địa phương, trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà Nước về chất ma túy, là một trong những nguyên nhân làm phát sinh các tệ nạn và các tội phạm khác. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội . Do đó cần co mưc hinh phat nghiêm khăc nhăm răn đe giao duc đôi vơi bi cao , trên cơ sở xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, nhân thân của bị cáo.

[5] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo Cầm Văn T không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[6] Về hình phạt bổ sung (phạt tiền) theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015: Quá trình điều tra và tại phiên tòa xác định bị cáo có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, là đối tượng nghiện chất ma túy, không có nghề nghiệp, thu nhập không ổn định, không có tài sản riêng có giá trị, xét việc áp dụng hình phạt bổ sung không có khả năng thi hành nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7] Về nguồn gốc số ma túy bị thu giữ: Về nguồn gốc số ma túy thu giữ trong vụ án, bị cáo khai nhận là của bị cáo mua của người đàn ông (không biết tên, tuổi, địa chỉ) vào ngày 16/4/2022 tại khu vực bản Cang, phường Chiềng Sinh, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La, ngoài lời khai của bị cáo không có nguồn tài liệu chứng cứ nào khác chứng minh nên Cơ quan Cảnh sát điều tra không có cơ sở mở rộng vụ án. Do đó buộc bị cáo Cầm Văn T phải chịu trách nhiệm về toàn bộ số ma túy bị thu giữ.

[8] Vật chứng vụ án: Đối với 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở; 1 mảnh giấy bạc màu vàng; Mẫu lưu T2= 2,63 gam là vật cấm lưu hành và vật không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy, căn cứ điểm a, c khoản 1, Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

[9] Về án phí: Buộc bị cáo Cầm Văn T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1.Về tội danh và hình phạt: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tuyên bố bị cáo Cầm Văn T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Cầm Văn T 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù.Thời hạn tù tính từ ngày bắt, tạm giữ, tạm giam (ngày 16/4/2022) Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

2.Về vật chứng vụ án: Căn cứ điểm a, c khoản 1 điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) chiếc phong bì công văn do Công an thành phố Sơn La phát hành, còn nguyên niêm phong, mặt trước phong bì ghi: “ Vật chứng lưu kho vụ Cầm Văn T - SN 1961 - Tàng trữ trái phép chất ma túy. Bắt ngày 16/4/2022. Gồm:

01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở; 1 mảnh giấy bạc màu vàng; Mẫu lưu T2= 2,63 gam”, mặt sau phong bì tại mép giáp lai được dán giấy niêm phong, trên giấy dán niêm phong có dòng chữ “ GIẤY NIÊM PHONG – CÔNG AN TỈNH SƠN LA”, số 083137 và 01 dấu tròn đỏ của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Sơn La cùng chữ ký và dòng ghi họ tên của thành phần tham gia niêm phong của Vì Hoàng Nam, Trần Huy Ngọc Anh, Nguyễn Thị Chung, Phạm Kiên Trung, Đồng Trọng Sổ, đối tượng Cầm Văn T và ghi dòng chữ “ Cơ quan CSĐT – CATP Sơn La hồi 21 giờ 45 phút ngày 16/4/2022 tại CATP Sơn La”.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 11/8/2022 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an thành phố Sơn La và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Sơn La).

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và khoản 1 điều 21; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14: Buộc bị cáo Cầm Văn T phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự: Bị cáo Cầm Văn T được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 31/8/2022).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

33
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 146/2022/HS-ST

Số hiệu:146/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Sơn La - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về