Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 145/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN P - TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 145/2023/HS-ST NGÀY 13/12/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 13 tháng 12 năm 2023, tại Hội trường Trung tâm văn hóa, thông tin và thể thao huyện Tân P, tỉnh Đồng Nai, xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 166/2023/HSST ngày 30/11/2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 143/2023/QĐXXST-HS ngày 01/12/2023, đối với bị cáo:

YÌN NHỘC C - sinh năm: 1983; nơi sinh: tại tỉnh Đồng Nai.

Nơi cư trú: Khu 6, thị trấn T P, huyện Tân P, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: Làm rẫy; trình độ văn hóa: 09/12; dân tộc: Hoa; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Yìn Phốc H (đã chết) và bà Vòng A M - sinh năm 1953; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 04/5/2018, bị Tòa án nhân dân huyện Tân P, tỉnh Đồng Nai áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 01 năm 08 tháng tại Quyết định số 15/QĐ-TA.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 11/10/2023 đến ngày 20/10/2023 chuyển tạm giam, hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện Tân P, tỉnh Đồng Nai. (Có mặt)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Yìn A B – sinh năm 1961. (vắng mặt). Địa chỉ: Khu 6, thị trấn T Ph, huyện Tân P, tỉnh Đồng Nai.

- Người làm chứng: Ông Hồ Nhọc Ph – sinh năm 1986. (vắng mặt) Địa chỉ: Ấp 5, xã Ph L, huyện Tân P, tỉnh Đồng Nai.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Yìn Nhộc C, sinh năm 1983, ngụ khu 6, thị trấn T Ph, huyện Tân P, tỉnh Đồng Nai, là đối tượng nghiện ma túy, loại ma túy C hay sử dụng là Heroin, trung bình mỗi ngày sử dụng một lần.

Buổi trưa ngày 11/10/2023, C điều khiển xe mô tô biển số 52K3-A2 chạy qua nhà Hồ Nhọc Ph , sinh năm 1986, ngụ ấp 5, xã P, huyện T, rồi cùng Ph đi xuống trạm y tế xã P Lợi , huyện Đinh Quan để uống Methadone . Sau khi uống xong, lúc P vào lấy xe ở khu vực gửi xe thì C đi ra trước cổng gặp một người đàn ông (không xác định được nhân thân, lai lịch) mua 200.000 đồng ma túy loại heroine và 100.00 đồng ma túy loại Methaphetamine cất giấu trong túi quần Jean phía trước bên phải để mang về nhà sử dụng. Sau khi mua xong, C lên xe mô tô cùng P vê lại huyện Tân P . Vào lúc 15 giờ 15 cùng ngày, khi đi đến Km số 2, đường ĐT774B thuộc ấp 2, xã P Lộc, huyện Tân P, tỉnh Đồng Nai, Yìn Nhộc C bị lực lượng Cảnh sát giao thông Công an huyện Tân P cùng Công an xã P Lộc ra tín hiệu dừng xe để kiểm tra hành chính phát hiện bắt quả tang cùng tang vậ.t Tại cơ quan điều tra, Yìn Nhộc C khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Tang vật thu giữ:

- 01 gói giấy bạc co kich thươc 2,5cm x 2,6cm, bên trong có chứa chất màu trắng có kích thước 0,9cm x 0,6cm x 0,5cm; 01 gói giây bac co kich thươc 3,7cm x 2,1cm, bên trong goi gây bac nay co 01 ống nhựa được hàn hai đầu có kích thươc 3,2cm x 1,2cm bên trong ông nhưa nay co chưa tinh thê mau trăng.

- 01 xe mô tô biển số 52K3 – A2, 01 điện thoại di động hiệu Nokia loại bàn phím màu xanh đen.

Tại Kết luận giám định số 2264/KL-KTHS ngày 18/10/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai kết luận:

- Mẫu chất màu trắng dạng cục (Ký hiệu M1) được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 0,1611 gam, loại Heroine.

- Mẫu tinh thể màu trắng (Ký hiệu M2) được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 0,1118 gam, loại Methamphetamine.

Tại Cáo trạng số 164/CT-VKSTP-ĐN ngày 20/11/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân P, tỉnh Đồng Nai đã truy tố bị cáo Yìn Nhộc C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình giống với lời khai trong quá trình điều tra, truy tố và không bổ sung gì thêm.

Tại phiên tòa, sau khi phân tích các dấu hiệu phạm tội, đánh giá các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ; đặc điểm nhân thân của bị cáo, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân P, tỉnh Đồng Nai giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Yìn Nhộc C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Yìn Nhộc C từ 01 năm 06 tháng tù đến 02 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 11/10/2023.

Về biện pháp tư pháp: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu tiêu hủy: 01 (một) phong bì có ký hiệu số 2264/KL-KTHS, ngày 18/10/2023 có dấu tròn đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai bên trong có chứa chất ma túy loại Methaphetamine còn lại sau giám định.

Bị cáo không tranh luận với Kiểm sát viên.

Về án phí đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo quy định của pháp luật.

Bị cáo nói lời nói sau cùng: “Bị cáo nhận thức được hành vi phạm tội của mình là trái pháp luật và nguy hiểm cho xã hội và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để bị cáo được sớm trở về tái hòa nhập cộng đồng.”.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Vụ án không thuộc trường hợp tạm đình chỉ hoặc trả hồ sơ điều tra bổ sung. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tân P, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân P, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Yìn A B và người làm chứng ông Hồ Nhọc Ph đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên tòa. Xét trong quá trình điều tra các ông Ph, B đã có lời khai đầy đủ. Việc vắng mặt của các ông P, B không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án nên căn cứ vào Điều 292, Điều 293 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[3] Tại phiên tòa bị cáo Yìn Nhộc C không cung cấp được tài liệu chứng cứ mới và khai nhận ngày 11/10/2023, bị cáo đã có hành vi tàng trữ 01 gói giấy bạc chứa ma túy loại Methamphetamine có khối lượng 0,1118 gam và 01 gói giấy bạc chứa ma túy loại Heroine có khối lượng 0,1611 gam trong túi quần nhằm mục đích sử dụng. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ, kết luận giám định cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa.

Hội đồng xét xử, nhận thấy hành vi của bị cáo Yìn Nhộc C đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội danh và hình phạt được quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Vì vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân P, tỉnh Đồng Nai truy tố bị cáo Yìn Nhộc C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Hành vi của bị cáo Yìn Nhộc C là nguy hiểm cho xã hội đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý, gây mất trật tự tại địa phương. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc tàng trữ, cất giấu trái phép chất ma túy có thành phần là Methamphetamine và Heroine là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Để có mức hình phạt phù hợp, tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra, Hội đồng xét xử sẽ xem xét, đánh giá các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo.

[5] Về nhân thân, tiền án, tiền sự: Bị cáo có nhân thân xấu, chưa có tiền án, tiền sự.

[6] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[7] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

[8] Với tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo; trên cơ sở xem xét về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo. Hội đồng xét xử xét thấy cần phải tiếp tục cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[9] Về vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy chất ma túy còn lại sau giám định bao gồm: 01 (một) phong bì ký hiệu số 2264/KL-KTHS, ngày 18 tháng 10 năm 2023 có dấu hình tròn đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai bên trong có chứa chất ma túy loại Methaphetamine còn lại 0,0931 gam và ma túy loại Heroin còn loại 0,1005 gam.

- Đối với xe mô tô biển số 52K3-A2 là của ông Yìn A B (là chú ruột bị cáo C) làm chủ sử hữu. Ông Bẩu không biết bị cáo Cường sử dụng xe mô tô biển số 52K3-A2 làm phương tiện đi mua ma túy nên Công an huyện Tân P, tỉnh Đồng Nai đã trả lại cho chủ sở hữu là có căn cứ.

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Nokia loại bàn phím màu xanh đen là của bị cáo C. Qúa trình điều tra xác định bị cáo C không sử dụng chiếc điện thoại di động trên vào mục đích phạm tội nên Công an huyện Tân P, tỉnh Đồng Nai đã trả lại cho chủ sở hữu là có căn cứ.

[10] Về nguồn gốc ma túy: Qúa trình điều tra, bị cáo C khai nguồn gốc số ma túy là mua lại của người đàn ông (không rõ họ tên, lai lịch) gần Trạm Y tế xã P Lợi, huyện Định Quán nhưng hiện nay Cơ quan điều tra chưa xác định được nhân thân lai lịch. Vì vậy, Công an huyện Tân P, tỉnh Đồng Nai tiếp tục điều tra làm rõ và xử lý sau là phù hợp.

[11] Về án phí: Bị cáo phải chịu số tiền 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm. [12] Về quyền kháng cáo: Bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

[13] Quan điểm về việc giải quyết toàn bộ vụ án của đại diện Viện kiểm sát phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Điểm i khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự.

- Căn cứ vào Điều 46, Điều 47 của Bộ luật hình sự.

- Điều 106 và khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự.

- Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố: Bị cáo Yìn Nhộc C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Xử phạt: Bị cáo Yìn Nhộc C 02 (hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ (ngày 11/10/2023).

3. Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy chất ma túy còn lại sau giám định bao gồm: 01 (một) phong bì ký hiệu số 2264/KL-KTHS, ngày 18 tháng 10 năm 2023 có dấu hình tròn đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai bên trong có chứa chất ma túy loại Methaphetamine còn lại 0,0931 gam và ma túy loại Heroin còn loại 0,1005 gam.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 29/11/2023 giữa Cơ quan điều tra Công an huyện Tân P và Chi cục thi hành án dân sự huyện Tân P).

4. Về án phí: Bị cáo Yìn Nhộc C phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo. Quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (ngày 13/12/2023).

Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt, quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

76
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 145/2023/HS-ST

Số hiệu:145/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Phú - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:13/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về