Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 142/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIÊN DU, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 142/2023/HS-ST NGÀY 14/08/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 14 tháng 8 năm 2023 tại điểm cầu Phòng xét xử Tòa án nhân dân huyện D đã tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 148/2023/TLST-HS ngày 18/7/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 143/2023/QĐXXST-HS ngày 01/8/2023 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn T, sinh năm 1995; Giới tính: Nam; Tên gọi khác: không; HKTT tại: Thôn Quảng Lãm, xã Hán Q, TX Q, tỉnh B; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Đoàn thể: không; Trình độ học vấn: 11/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Họ và tên bố: Nguyễn Văn Th, sinh năm 1958 (đã chết); Họ và tên mẹ: Phạm Thị H, sinh năm 1960; Gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất; Vợ con: chưa có.

Nhân thân: Ngày 19/7/2017, Công an huyện D quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 12 ngày 20/02/2017, hình thức phạt tiền 1.500.000 đồng, đã chấp hành xong ngày 20/02/2017.

Tiền án: Tại bản án số 230/2020/HS-ST ngày 21/9/2020 của Tòa án nhân dân quận Long Biên, thành phố Hà Nội xử 13 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Ngày 26/5/2021 chấp hành xong hình phạt tù, ngày 08/10/2021 chấp hành xong án phí.

Tiền sự: Ngày 08/02/2022, bị Chủ tịch UBND xã Hán Q quyết đinh áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn 03 tháng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Ngày 08/5/2022 chấp hành xong.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/5/2023 đến nay. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh B. (Có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ ngày 12 tháng 5 năm 2023, Nguyễn Văn T đi lên bến xe B rồi đi xe buýt đến khu vực Chùa Dận, phường Đình Bảng, thành phố Từ Sơn. Tại đây, T mua của một người đàn ông không quen biết 100.000đ được 03 gói ma túy bọc giấy (2 gói màu trắng, 01 gói màu vàng) để sử dụng cho bản thân. Sau đó, T đi xe buýt đến khu vực cầu Đồng Xép, thuộc địa phận xã Hoàn Sơn thì đi nhờ xe của 01 nam thanh niên khoảng 30 tuổi về Cầu Hồ. Khi đi đến cửa hàng sửa chữa xe máy Quang Hưng, cạnh đường Quốc lộ 38 cũ thuộc địa phận thôn Tư Chi, xã Tân Chi, huyện D, tỉnh B nam thanh niên trên đi vào quán sửa xe. Tại cửa quán sửa xe mô tô Quang Hưng, Nguyễn Văn T bị Công an xã Tân Chi kiểm tra, bắt quả tang đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy;

Thu giữ tại túi quần bên phải của T đang mặc có 03 gói bọc ngoài bằng giấy (02 gói màu trắng, 01 gói màu vàng) mở ra bên trong đều chứa chất bột màu trắng, T khai nhận là ma túy Heroin.

Tại kết luận giám định số 1035/KL-KTHS ngày 15/5/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B kết luận: Chất bột màu trắng bên trong 03 gói giấy (Trong đó 02 gói giấy màu trắng và 01 gói giấy màu vàng) gửi giám định có khối lượng là 0,3089 gam, là ma túy, loại ma túy Heroine;

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì đối với kết luận giám định.

Bản Cáo trạng số 94/CT-VKS-TD ngày 17/7/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện D đã truy tố Nguyễn Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự;

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện D phân tích lời khai nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa phù hợp với nhau; Phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định và toàn bộ các tài liệu chứng cứ trong hồ sơ giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo. Sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội cuả các bị cáo, cũng như xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ đối với bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

Đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, Điều 51; điểm h Khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự:

Xử phạt: Nguyễn Văn T từ 20 đến 24 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 12/5/2023 Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy mẫu vật còn lại sau giám định;

Bị cáo nhận tội không tham gia tranh luận đối với đại diện Viện kiểm sát mà chỉ đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt;

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu có trong hồ sơ đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của bị cáo;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện D, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện D, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến, khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Về nội dung vụ án đã thể hiện rõ: Do có nhu cầu sử dụng ma túy, Ngày 12/5/2023 T đi xe buýt đến khu vực Chùa Dận, Từ Sơn, B mua ma túy của một người không quen biết. Khi đi về đến cửa quán sửa xe mô tô Quang Hưng, cạnh đường Quốc lộ 38 cũ thuộc địa phận thôn Tư Chi, xã Tân Chi, huyện D, tỉnh B, T bị công an xã Tân Chi kiểm tra phát hiện đang tàng trữ trái phép 0,3089gam ma túy. Hành vi của T đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại khoản 1 điều 249 BLHS. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện D đã truy tố bị cáo với tội danh và điều luật viện dẫn là hoàn toàn phù hợp, có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật;

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền của Nhà nước về quản lý các chất ma túy, gây tác hại lớn về nhiều mặt cho xã hội góp phần làm lan truyền tệ nạn nghiện ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội. Hành vi cuả bị cáo đã tiếp tay làm gia tăng tệ nạn ma túy trên địa bàn dân cư, đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự gia tăng của nhiều loại tội phạm khác.

Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cuả các bị cáo thì thấy:

Tình tiết tăng nặng: Bị cáo có tiền án tại bản án số 230/2020/HS-ST ngày 21/9/2020 của Tòa án nhân dân quận Long Biên, thành phố Hà Nội xử 13 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, lần phạm tội này của bị cáo là tình tiết tăng nặng “Tái phạm” quy định tại điểm h, Điều 52 BLHS. Bị cáo có tiền sự về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy nên đây là những tình tiết cần xem xét khi quyết định mức hình phạt với bị cáo;

Tình tiết giảm nhẹ: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Về xử lý vật chứng: 01 phong bì dán kín có chữ ký, dấu đỏ của Phòng hình sự Công an tỉnh B: Mẫu vật còn lại sau giám định của vụ án cần tịch thu tiêu hủy; Đối với nam thanh niên cho T đi nhờ xe, do T không cung cấp được tên, tuổi địa chỉ nên không có căn cứ để làm rõ được con người cụ thể, nên cơ quan điều tra đang tiếp tục điều tra, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.

Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho T ngày 12/5/2023 ở khu vực Chùa Dận, do T không biết tên tuổi, địa chỉ của người này nên cơ quan điều tra đang tiếp tục điều tra, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.

Qua kiểm tra xác định T dương tính với ma túy tuy nhiên T không nhớ thời gian, địa điểm sử dụng nên chưa đủ căn cứ để xử lý, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

 Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” Áp dụng điểm c, khoản 1, Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106, Điều 136, Điều 329, Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí và lệ phí Tòa án;

Xử phạt: Nguyễn Văn T 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 12/5/2023;

Tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Tịch thu tiêu hủy mẫu vật hoàn lại sau giám định có đặc điểm theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 19/7/2023 tại Chi cục THA DS huyện D;

Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

17
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 142/2023/HS-ST

Số hiệu:142/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tiên Du - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về